Phép biện chứng duy tâm ở triết học cổ điển Đức

 Với những người nghiên cứu và tìm hiểu về triết học thì chắc chắn không thể không biết tới triết học cổ điển Đức. Những đóng góp trong tư tưởng của triết học cổ điển Đức đã tạo tiền đề quan trọng để biến triết học trở thành khoa học của khoa học.

Trong bài viết dưới đây, hãy cùng Tri Thức Cộng Đồng đi tìm hiểu những kiến thức cơ bản nhất của triết học Đức cổ điển để có cái nhìn cụ thể và chi tiết nhất nhé!

Mục lục

Trước tiên, phải nói về hoàn cảnh ra đời của triết học cổ điển Đức. Vào cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỷ XIX khi chủ nghĩa tư bản hình thành tại một số nước Tây Âu, nền kinh tế công nghiệp trong thời kỳ này phát triển cực thịnh tạo ra những thành tựu đáng nể về kinh tế. Trong khi các nước Tây Âu như Anh, Pháp, Ý chứng kiến thời kỳ văn minh công nghiệp bùng nổ thì Liên bang Đức thời bấy giờ lại tỏ ra tụt hậu hơn hẳn khi vẫn chỉ là một quốc gia phong kiến lạc hậu.

Nội bộ nước Đức cũng chia năm xẻ bảy dẫn đến cả đất nước chia thành nhiều tiểu vương quốc nhỏ, không có sự thống nhất trong lãnh đạo, càng không có chỗ dựa cho sự phát triển kinh tế. Nông nghiệp thì bị đình đốn, triều đình vẫn ngoan cố duy trì chế độ phong kiến lạc hậu dẫn đến nước Đức ngày càng bị bỏ lại phía sau trong thời kỳ cách mạng công nghiệp.  

Tuy nhiên, mặc dù kinh tế chính trị đang lâm vào bế tắc với đầy rẫy những khó khăn không thể giải quyết thì thời kỳ này lại chứng kiến sự phát triển nở rộ về văn hóa, nghệ thuật và đặc biệt là triết học. Đây cũng chính là thời kỳ sản sinh ra những nhà văn, nhà thơ, nhà triết học vĩ đại trong lịch sử nhân loại như Hécđơ, Gớt, Sinlơ, Cantơ… Chính họ là những người đã kế thừa những tư tưởng văn hóa truyền thống, tiếp thu và phát huy những thành tựu văn hóa mới.

Kể từ đây, triết học cổ điển Đức ra đời để đáp ứng nhu cầu cần có một cách nhìn mới về các hiện tượng tự nhiên cũng như tiến trình lịch sử của nhân loại. Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao của thời kỳ triết học cổ điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết học hiện đại.

Xem thêm: >>> Những nhà triết học cổ điển đức

2. Đặc điểm triết học cổ điển Đức

– Triết học cổ điển Đức mặc dù có nội dung khá rõ ràng, mục đích chủ yếu là dẫn đường cho các cuộc cách mạng chính trị tuy nhiên hình thức vẫn còn rất rối rắm và khó hiểu, đồng thời chứa đựng những tư tưởng vần còn bảo thủ. 

– Triết học cổ điển Đức đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người. Ở đó, con người là một thực thể trong vũ trụ, thực thể ấy chính là cơ sở, là nền tảng cho mọi vấn đề của triết học. Có nghĩa là, mọi khái niệm triết học đều được có thể được giải nghĩa nhờ vào thực thể con người. 

– Trong triết học Đức, con người là chủ thể và cũng là kết quả của quá trình hoạt động. Tư duy và ý thức của của con người chỉ có thể phát triển trong quá trình con người nhận thức và cải tạo thế giới.

– Tiếp thu tư tưởng biện chứng của triết học cổ đại: Các nhà triết học cổ điển của nước Đức đã xây dựng phép biện chứng độc lập với tư duy siêu hình trong lĩnh vực nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội. 

Với cách nhìn bao quát, biện chứng, nhiều nhà triết học Đức có tham vọng xây dựng một hệ thống triết học vạn năng không những làm nền tảng cho thế giới quan của con người mà còn trở thành một thứ khoa học của các khoa học. Do vậy, trong học thuyết triết học của Kant, Duyrinh, Hêghen thường bàn đến nhiều vấn đề như: khoa học tự nhiên, pháp quyền, lịch sử, luân lý, mỹ học.

3. Nội dung cơ bản của triết học cổ điển Đức

3.1. Triết học Kant

Immanuel Kant [1724-1804] là một trong những triết học quan trọng nhất của triết học cổ điển Đức, của thời kỳ Khai sáng và của lịch sử thế giới. Ông là người đã có định nghĩa đầy đủ về vật tự thể, một trong những khái niệm triết học nổi tiếng nhất. Ông là một trong những người đi đầu về chủ nghĩa duy tâm, bản chất của triết học cổ điển Đức.

3.2. Triết học Hegel

Georg Wilhelm Friedrich Hegel [1770-1831] cũng là một trong những nhà triết học lớn nhất của Đức. Ông là người đã phát triển phương pháp luận biện chứng, một trong những yếu tố quan trọng của chủ nghĩa Marx-Lenin sau này. Tuy nhiên, ông lại sử dụng thế giới quan duy tâm để giải quyết câu hỏi: Khởi thủy của vũ trụ là gì?

3.3. Triết học Feuerbach

Ludwig Andreas Feuerbach [1804-1872] là nhà triết học lớn cuối cùng của triết học cổ điển Đức. Ông đã vượt qua cái bóng của những người đàn anh, những khổng lồ của triết học Đức như Kant và Hegel để đến với thế giới quan duy vật, một trong các yếu tố quan trọng nhất của chủ nghĩa Marx-Lenin sau này. 

Tuy nhiên, ông lại cho rằng lịch sử loài người không hề phát triển mà chỉ là bức tranh đầy màu sắc được tạo ra bởi sự khác nhau về tôn giáo. Rõ ràng trong quan điểm này, Feuerbach đã nhìn nhận bằng phương pháp luận siêu hình.

Nếu bạn gặp khó khăn hãy liên hệ với đội ngũ Tri Thức Cộng Đồng để được hỗ trợ sử dụng THUÊ VIẾT TIỂU LUẬN GIÁ RẺ của chúng tôi qua Gmail hoặc Hotline 0946 88 33 50 để được tư vấn và báo giá trực tiếp.

4. Đóng góp và hạn chế trong nội dung của triết học cổ điển Đức

4.1. Đóng góp

Triết học cổ điển Đức mang lại cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến trình lịch sử nhân loại. Triết học thời kì này đặc biệt đề cao vai trò hoạt động tích cực của con người, thực hiện bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng triết học phương Tây từ chỗ chủ yếu bàn về những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận… đến chỗ coi con người như một chủ thể hoạt động, là nền tảng và là điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học.

Thứ nhất, nó khẳng định rằng tư duy và ý thức chỉ có thể phát triển trong chừng mực con người nhận thức và cải tạo thế giới. Con người là chủ thể, đồng thời là kết quả của toàn bộ nền văn minh do chính mình tạo ra.

Thứ hai, nó nghiên cứu tiến trình lịch sử của nhân loại cũng như toàn bộ mối quan hệ con người – tự nhiên như một quá trình phát triển biện chứng.

4.2. Hạn chế

Hạn chế chung nhất trong thế giới quan của các nhà triết học cổ điển Đức là thể hiện rõ mâu thuẫn giữa tính cách mạng – khoa học về tư tưởng với tính bảo thủ, cải lương về lập trường chính trị – xã hội.

Hạn chế thứ hai và cũng là hạn chế lớn nhất của triết học cổ điển Đức chính là chủ nghĩa duy tâm thần bí. Phía trước và bên cạnh các nhà triết học cổ điển Đức là một dòng triết học duy vật, đặc biệt là tư tưởng duy vật của các nhà triết học Khai sáng. Song các nhà triết học cổ điển Đức thấy rằng: từ quan điểm duy vật, người ta không thể giải thích được thế giới.

Hạn chế thứ ba của triết học cổ điển Đức là: Triết học trừu tượng tách rời hiện thực. Triết học cổ điển Đức đưa ra được những tư tưởng tiến bộ, chống chế độ xã hội cũ nhưng đó chỉ là những tư tưởng, nó không đi vào chính trị xã hội và hoạt động cách mạng mà chỉ là những hệ thống triết lý trừu tượng ở bên trên.

Trên đây là những kiến thức cơ bản nhất về triết học cổ điển Đức được khá nhiều sinh viên chọn làm tiểu luận triết học. Có thể thấy, những tư tưởng và giá trị mà triết học Đức cổ điển để lại là vô cùng có ý nghĩa, nó là tiền đề quan trọng cho triết học hiện đại sau này.

Xem thêm:>> 75+ đề tài tiểu luận triết học tham khảo hay nhất

Nếu như bạn vẫn còn những thắc mắc hoặc khó khăn cần giúp đỡ khi làm tiểu luận triết học cổ điển Đức hãy liên hệ ngay với Tri Thức Cộng Đồng thông qua SĐT: 0946 88 33 50 hoặc Email: để được hỗ trợ kịp thời. 

Cùng THPT Sóc Trăng tỉm hiểu khái niệm phép biện chứng là gì, các hình thức phát triển của phép biện chứng trong lịch sử, đặc trưng cơ bản của phép biện chứng cổ đại,…

Khái niệm biện chứng và phép biện chứng

Trong chũ nghĩa Mác — Lênin, khái niệm biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư duy.

Biện chứng bao gồm biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Biện chứng khách quan là biện chứng của thế giới vật chất, còn biện chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào trong đời sống ý thức của con người.

Theo Ph.Ăngghen: “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên…”.

Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Với nghĩa như vậy, phép biện chứng thuộc về biện chứng chủ quan, đồng thời nó cũng đối lập với phép siêu hình – phương pháp tư duy về sự vật, hiện tượng của thế giới trong trạng thái cô lập và bất biến.

Phép biện chứng cổ đại là gì?

Phép biện chứng đã phát triển qua ba hình thức, ba trình độ cơ bản: phép biện chứng chất phác thời cổ đại [gọi tắt là phép biện chứng cổ đại], phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng. Nó là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ dại. Tiêu biểu cho nhũng tư tưởngng biện chứng của triết học Trung Quốc là “biến dịch luận” [học thuyết về những nguyên lý, quy luật biến đổi phổ biến trong vũ trụ] và “ngũ hành luận” [học thuyết về những nguyên tắc tương tác, biến đổi của các tố chất bản thể trong vũ trụ] của Âm dương gia. Trong triết học Ấn Độ, biểu hiện rõ nét nhất của tư tưởng biện chứng là triết học của đạo Phật, với các phạm trù “vô ngã”, “vô thường”, “nhân duyên”. Đặc biệt, triết học Hy Lạp cổ đại đã thể hiện một cách sâu sắc tinh thần của phép biện chứng tự phát. Ph.Ăngghen viết: “Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng tự phát, bẩm sinh, và Arixtốt, bộ óc bách khoa nhất trong các nhà triết học ấy, cũng đã nghiên cứu những hình thức căn bản nhất của tư duy biện chứng… Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hêraclit trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và đồng thời lại không tồn tại, vì mọi vật đang trôi đi, mọi vật đều không ngừng thay đổi, mọi sự vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong”‘.

Tuy nhiên, những tư tưởng biện chứng đó về căn bản vẫn còn mang tính chất ngây thơ, chất phác. Ph.Ăngghen nhận xét: “Trong triết học này, tư duy biện chứng xuất hiện với tính chất thuần phác tự nhiên chưa bị khuấy đục bởi những trở ngại đáng yêu… Chính vì người Hy Lạp chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích giới tự nhiên, cho nên họ hãy còn quan niệm giới tự nhiên là một chỉnh thể và đứng về mặt toàn bộ mà xét chỉnh thế ấy. Mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng tự nhiên chưa được chứng minh về chi tiết: đối với họ, mối liên hệ đó là kết quả của sự quan sát trực tiếp”. Phép biện chứng chất phác cổ đại nhận thức đúng về tính biện chứng của thế giới nhưng bằng trực kiến thiên tài, bằng trực quan chất phác, ngây thơ, còn thiếu sự chứng minh bởi những thành tựu phát triển của khoa học tự nhiên.

Từ nửa cuối thế kỷ XV, khoa học tự nhiên bất đầu phát triển mạnh, đi sâu vào phân tích, nghiên cứu từng yếu tố riêng biệt của thế giới tự nhiên, dần tới sự ra đời của phương pháp siêu hình. Đến thế kỷ XVIII, phương pháp siêu hình trở thành phương pháp thống trị trong tư duy triết học và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, khi khoa học tự nhiên chuyển từ việc nghiên cứu đối tượng riêng biệt sang nghiên cứu quá trình thống nhất của các đối tượng đó trong môi liên hệ, thì phương pháp tư duy siêu hình không còn phù hợp mà phải chuyển sang một hình thức tư duy mới cao hơn là tư đuy biện chứng.

Các đặc trưng cơ bản của phép biện chứng cổ đại

– Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng cổ đại là tính tự phát, ngây thơ; mới chỉ là những quan điểm biện chứng mang tính suy luận, phỏng đoán trên cơ sở những kinh nghiệm trực giác nên chưa trở thành hệ thống lý luận nhận thức, mà mới chỉ dừng lại ở sự mô tả tính biện chứng của thế giới.

– Cho dù còn hạn chế, nhưng phép biện chứng cổ đại coi thế giới là một chỉnh thể thống nhất; giữa các bộ phận của thế giới có mối liên hệ qua lại, thâm nhập, tác động và quy định lẫn nhau và đó là cơ sở để phép biện chứng phát triển.

Các hình thức phát triển khác của phép biện chứng

Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức 

– Triết học cổ điển Đức ra đời trong điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt. Nước Đức vào cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX vẫn là một nước rất lạc hậu về kinh tế và chính trị so với nhiều nước ở châu Âu như Anh và Pháp. Đó còn là một quốc gia phong kiến điển hình, với 360 tiểu vương quốc tự lập trong một liên bang Đức chỉ còn là hình thức, lạc hậu về kinh tế và chính trị. Thủ công nghiệp, công nghiệp, nông nghiệp bị đình đốn.

– Được khởi đầu từ Kant và hoàn thiện ở Hégel. Theo Ăngghen: “Hình thức thứ hai của phép biện chứng, hình thức quen thuộc nhất với các nhà khoa học Đức, là triết học cổ điển Đức, từ Kant đến Hégel”.

– Các nhà triết học cổ điển Đức đã trình bày những tư tưởng cơ bản nhất của phép biện chứng duy tâm một cách có hệ thống. Tính chất duy tâm trong triết học Hégel biểu hiện ở chỗ ông coi biện chứng là quá trình phát triển khởi đầu của “ý niệm tuyệt đôí”, coi biện chứng chủ quan là cơ sở của biện chứng khách quan. Theo Hégel, “ý niệm tuyệt đối” là điểm khởi đầu của tồn tại, tự “tha hóa” thành giới tự nhiên và trở về với bản thân nó trong tồn tại tinh thần. “Tinh thần, tư tưởng, ý niệm là cái có trước, còn thế giới hiện thực chỉ là một bản sao chép của ý niệm”. Các nhà triết học duy tâm Đức, mà đỉnh cao nhất là Hégel, đã xây dựng phép biện chứng duy tâm với hệ thống phạm trù, qui luật chung, có logic chặt chẽ của ý thức, tinh thần. Lênin cho rằng: “Hégel đã đoán được một cách tài tình biện chứng của sự vật trong biện chứng của khái niệm”. Ăngghen cũng nhấn mạnh tư tưởng của Mác: “tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải trong tay Hégel tuyệt nhiên không ngăn cản Hégel trở thành người đầu tiên trình bày một cách bao quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng. Ở Hégel, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó ở đằng sau cái vỏ thần bí của nó”.

– Tính chất duy tâm trong phép biện chứng cổ điển Đức, cũng như trong triết học Hégel là hạn chế cần phải vượt qua. Mác và Ăngghen đã khắc phục hạn chế đó để sáng tạo nên phép biện chứng duy vật. Đó là giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học, là sự kế thừa trên tinh thần phê phán đối với phép biện chứng cổ điển Đức. Ăngghen tự nhận xét: ““…có thể nói rằng hầu như chỉ có Mác và tôi là những người đã cứu phép biện chứng tự giác thoát khỏi triết học duy tâm Đức và đưa nó vào trong quan niệm duy vật về tự nhiên và về lịch sử”.

 Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin 

– Khẳng định rằng, thế giới vật chất tồn tại khách quan, các sự vật và hiện tượng luôn luôn vận động và biến đổi, chuyển hóa lẫn nhau, cái cũ mất đi, cái mới ra đời. Do các sự vật và hiện tượng trong thế giới luôn có sự vận động, biến đổi thường xuyên, nên tư duy con người cũng phải luôn luôn đổi mới để theo kịp sự vận động, biến đổi đó, như Ph.Ăngghen đã viết trong tác phẩm Chống Đuy rinh: “Phép biện chứng… là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”, “là chìa khóa để giúp con người nhận thức và chinh phục thế giới”. Cho nên khi xây dựng đường lối đổi mới, Đảng ta đã xác định trước hết đổi mới tư duy cho cán bộ, đảng viên về cả phương pháp tư duy; nhận thức lý luận; cơ chế, chính sách. Phép biện chứng duy vật chính là công cụ hữu hiệu giúp Đảng ta giải quyết thấu đáo ba vấn đề lớn liên quan đến đường lối đổi mới từ năm 1986 đến nay.

Qua bài viết, THPT Sóc Trăng đã giúp các em học sinh làm rõ khái niệm phép biện chứng là gì, các hình thức phát triển của phép biện chứng, đặc trưng cơ bản của phép biện chứng cổ đại là gì,… Các em học sinh có thể truy cập website THPT Sóc Trăng để tìm hiểu nhiều bài viết hữu ích trong quá trình học tập và thi cử.

Đăng bởi: THPT Sóc Trăng

Chuyên mục: Tổng hợp

Video liên quan

Chủ Đề