Những nguyên tắc cơ bản của đạo đức khoa học

9
610 KB
1
70

Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu

Để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên

Journal of Science – 2016, Vol. 9 [1], 1 – 9 Part A: Social Sciences, Humanities and Education KHÁM PHÁ VÀ PHÂN TÍCH CÁC NGUYÊN TẮC VÀ CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC Trần Văn Đạt1, Võ Văn Thắng2, Lê Minh Tuấn Lâm3 TS. Trường Đại học An Giang PGS, TS. Trường Đại học An Giang 3 ThS. Trường Đại học An Giang 1 2 Thông tin chung: Ngày nhận bài: 25/12/15 Ngày nhận kết quả bình duyệt: 29/01/16 Ngày chấp nhận đăng: 03/16 Title: An exploration and critique of the principles and standards of research ethics in educational research Từ khóa: Nghiên cứu giáo dục, đạo đức nghiên cứu, nguyên tắc đạo đức, chuẩn mực đạo đức, ủy ban đạo đức Keywords: Educational research, research ethics, ethical principles, ethical standards in educational research, Ethics Committee ABSTRACT Research ethics are a guiding set of ethical principles and standards that are to monitor and assist educational researchers in conducting ethical studies with a high ethical standard. Ethical research is very important for all educational researchers who conduct research projects or use and apply the results from research findings. Research is a public trust that must be ethically conducted, trustworthy, and socially responsible if the results are to be valuable. All parts of a research project – from the project design to submission of the results for peer review – have to be upstanding in order to be considered ethical. This paper explores [1] four basic principles of research ethics: integrity; professional, scientific, and scholarly responsibility; respect for people’s rights, dignity and diversity; and social responsibility; [2] analyzes six basic standards of research ethics: authorship, avoiding plagiarism, peer review, data management, avoiding misconduct [fabrication, falsification, and plagiarism], and respect for persons [informed consent, privacy and confidentiality]; and [3] recommends necessary requirements to establish an Institutional Review Board or Ethics Committee in all Vietnamese Universities with the aim of helping us to ensure ethical studies in educational research. TÓM TẮT Đạo đức nghiên cứu là một tập hợp các nguyên tắc và những chuẩn mực phổ quát dùng để giám sát và trợ giúp những nhà nghiên cứu giáo dục thực hiện những nghiên cứu với những chuẩn mực đạo đức cao nhất. Đạo đức nghiên cứu đóng vai trò tối quan trọng đối với tất cả các nhà nghiên cứu giáo dục trong việc thực hiện các dự án nghiên cứu hoặc sử dụng và ứng dụng các kết quả nghiên cứu. Để được xem là một nghiên cứu có chuẩn mực đạo đức cao thì tất cả các giai đoạn của một nghiên cứu – từ giai đoạn thiết kế đề cương nghiên cứu đến giai đoạn đệ trình kết quả nghiên cứu – phải tuyệt đối trung thực. Bài viết này [1] khám phá 4 nguyên tắc của đạo đức nghiên cứu: tính chân thật; trách nhiệm học thuật, khoa học, và nghề nghiệp; tôn trọng quyền, phẩm giá, và sự khác biệt của con người; và trách nhiệm đối với xã hội; [2] phân tích 6 chuẩn mực cơ bản của đạo đức nghiên cứu: thực hiện quyền tác giả, ngăn chặn trình trạng đạo văn, bình duyệt đồng đẳng, quản lý dữ liệu, ngăn chặn sự vi phạm đạo đức nghiên cứu, và trân trọng người tham gia nghiên cứu; [3] khuyến nghị những yêu cầu cần thiết để thành lập Ủy ban đạo đức ở các trường đại học 1 Journal of Science – 2016, Vol. 9 [1], 1 – 9 Part A: Social Sciences, Humanities and Education tại Việt Nam nhằm mục đích đảm bảo những nghiên cứu nghiêm túc có chất lượng cao, đồng thời ngăn chặn những nghiên cứu cẩu thả có chất lượng thấp. giáo dục trong việc xác định các chuỗi hành động mang tính đạo đức ở những ngữ cảnh khác nhau nhằm thực hiện những nghiên cứu với chất lượng cao nhất bằng lối ứng xử chuyên nghiệp nhất. Theo AERA [2011, tr.146-147], có bốn nguyên tắc đạo đức cơ bản mà bất cứ nhà nghiên cứu nào cũng cần tuân thủ, đó là tính chân thật, trách nhiệm học thuật, tôn trọng quyền con người và trách nhiệm đối với xã hội. 1. GIỚI THIỆU Đạo đức [ethics] là những nguyên tắc giúp giữ gìn những giá trị phổ quát nhất của nhân loại. Đạo đức nghiên cứu [research ethics] là tập hợp các nguyên tắc để định hướng, giáo dục và giám sát các nhà khoa học thực hiện các nghiên cứu với những chuẩn mực đạo đức cao nhất [Johnson & Christensen, 2012]. Đạo đức nghiên cứu có vai trò tối quan trọng đối với tất cả những người thực hiện các dự án nghiên cứu hoặc sử dụng và ứng dụng các kết quả từ những nhận định nghiên cứu. Vai trò của đạo đức nghiên cứu là trân trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của người tham gia trong dự án nghiên cứu; gìn giữ những giá trị của cộng đồng; mang lại lợi ích cho những người liên quan và cộng đồng bằng những giá trị nghiên cứu có chất lượng nhất; thực hiện trách nhiệm của cá nhân nhà nghiên cứu đối với xã hội [Johnson & Christensen, 2012]. Nghiên cứu là một cuộc điều tra mang tính hệ thống và nghiêm túc, có tính cộng đồng và xã hội. Do vậy, đạo đức nghiên cứu có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc ngăn chặn những nghiên cứu thiếu nghiêm túc, vô trách nhiệm đồng thời hạn chế tối đa những nguy hại tiềm ẩn cho người tham gia trong nghiên cứu [American Educational Research Association [AERA], 2011]. Tất cả những công đoạn của một nghiên cứu – từ công việc thiết kế nghiên cứu đến công việc đệ trình kết quả nghiên cứu – phải trung thực để được xem xét về phương diện đạo đức nghiên cứu. Khi một công đoạn của nghiên cứu bị nghi ngờ bởi giới học thuật thì toàn bộ công trình nghiên cứu đó bị nghi ngờ và bị thẩm tra bởi những người có trách nhiệm [University of Minnesota, 2003]. Tính chân thật Các nhà nghiên cứu giáo dục phải là những người chân thành, công bằng, và trân trọng người khác trong các hoạt động chuyên môn – trong nghiên cứu, giảng dạy, thực hành và dịch vụ. Họ không bao giờ hành động một cách có chủ tâm để gây nguy hại cho lợi ích của những người khác. Họ thực hiện các hoạt động chuyên nghiệp của họ bằng những cách mà chúng mang lại sự tín nhiệm và sự tin cậy cho mọi người [AERA, 2011]. Trách nhiệm học thuật, khoa học, và nghề nghiệp Các nhà nghiên cứu giáo dục luôn trung thành với những tiêu chuẩn chuyên môn và khoa học cao nhất và thừa nhận trách nhiệm đối với các công trình nghiên cứu của mình [Johnson & Christensen, 2012]. Họ coi trọng lòng tin của cộng đồng trong nghiên cứu, quan tâm đến hành vi đạo đức của họ, và hành vi đạo đức của các nhà nghiên cứu khác mà có thể phù hợp với lòng tin đó. Các nhà nghiên cứu giáo dục hiểu rằng họ thành lập một cộng đồng và thể hiện sự trân trọng đối với các nhà nghiên cứu giáo dục khác thậm chí khi họ không đồng ý với các nhà nghiên cứu giáo dục khác về các phương diện lý thuyết hay phương pháp nghiên cứu. Sự hợp tác luôn luôn mang tính đồng nghiệp nhưng các nhà nghiên cứu không bao giờ để những ước muốn mang tính đồng nghiệp vượt khỏi trách nhiệm chung của họ về hành vi đạo đức. Trong những trường hợp nếu bất đồng xảy ra thì họ sẽ làm việc cùng nhau để 2. NGUYÊN TẮC VÀ CHUẨN MỰC CỦA ĐẠO ĐỨC NGHIÊN CỨU 2.1 Các nguyên tắc của đạo đức nghiên cứu Những nguyên tắc đạo đức sau đây được xem như những định hướng chỉ dẫn cho các nhà nghiên cứu 2 Journal of Science – 2016, Vol. 9 [1], 1 – 9 Part A: Social Sciences, Humanities and Education ngăn chặn hoặc tránh né những ứng xử không đạo đức [AERA, 2011]. Quyền tác giả là một bộ phận quan trọng không thể thiếu của nghiên cứu. Quyền tác giả là tiến trình quyết định những ai là người đứng tên tác giả một công trình nghiên cứu [University of Minnesota, 2003]. Trong nhiều trường hợp, nghiên cứu có sự hợp tác và sự trợ giúp giữa các chuyên gia và đồng nghiệp, khi đó sự trợ giúp này đòi hỏi sự thừa nhận và một số khác đòi hỏi quyền đồng tác giả. Tuy nhiên, mỗi cá nhân được liệt kê như một tác giả của một công trình nghiên cứu cần có những đóng góp vào tiến trình thực hiện một nghiên cứu. Tất cả những tác giả đã được liệt kê tên phải có trách nhiệm đầy đủ về nội dung của công trình nghiên cứu. Những yêu cầu đối với quyền tác giả của mỗi cá nhân trong công trình nghiên cứu được quy định như sau: a] có những đóng góp quan trọng đối với kế hoạch và thiết kế nghiên cứu, hoặc quản lý dữ liệu, hoặc phân tích và diễn giải dữ liệu; b] phác thảo công trình nghiên cứu hoặc đọc và góp ý nội dung công trình nghiên cứu; và c] đọc bản thảo cuối cùng trước khi đệ trình báo cáo kết quả nghiên cứu [International Committee of Medical Journal Editors [ICNJE]]. Tất cả các điều kiện a, b, và c phải được đáp ứng. Quản lý kinh phí, thu thập dữ liệu, hoặc giám sát nhóm nghiên cứu là những hoạt động không thỏa mãn để đảm bảo quyền tác giả của một công trình nghiên cứu [ICNJE, www.icmje.org]. Tôn trọng quyền, phẩm giá, và sự khác biệt của con người Các nhà nghiên cứu giáo dục luôn tôn trọng quyền, phẩm giá và giá trị của tất cả mọi người và cẩn trọng không làm tổn thương nhau bằng lối ứng xử phi đạo đức khi thực hiện các nghiên cứu [Johnson & Christensen, 2012]. Trong nghiên cứu, họ có trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích, phẩm giá của những người tham gia nghiên cứu. Họ luôn nhạy cảm đối với những khác biệt về văn hóa, tính cách riêng biệt của những nhóm người tham gia nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu luôn luôn nỗ lực để hạn chế những định kiến trong các hoạt động chuyên môn. Họ không chấp nhận bất kỳ những hình thức phân biệt đối xử nào về chủng tộc, sắc tộc, văn hóa, nguồn gốc, giới tính, khuynh hướng tình dục, nhân dạng giới tính, tuổi tác, tôn giáo, ngôn ngữ, sự mất khả năng, điều kiện sức khỏe, địa vị kinh tế - xã hội, hoặc tình trạng hôn nhân, địa vị của cha mẹ,… Trong tất cả các hoạt động liên quan đến công việc của mình, các nhà nghiên cứu giáo dục thừa nhận quyền của những người khác để lưu giữ các giá trị, thái độ và quan điểm mà có sự khác biệt với họ. Họ đối xử những người khác bằng tất cả phẩm cách chân thành và trân trọng nhất. Các nhà nghiên cứu luôn tránh những tổn thương cho người tham gia. Trong trường hợp những rủi ro xảy ra thì nhà nghiên cứu lập tức hành động để giảm thiểu những nguy hại của chúng. Nếu cần, họ hủy bỏ cuộc nghiên cứu đang thực hiện [AERA, 2011]. Các đồng nghiệp có tham gia vào việc thực hiện một công trình nghiên cứu nhưng không đáp ứng những điều kiện trên thì họ không được công nhận quyền tác giả [University of Minnesota, 2003]. Thay vào đó, họ được thừa nhận sự đóng góp ở cuối công trình nghiên cứu bằng một đoạn văn mô tả vắn tắt sự đóng góp của họ. Để được thừa nhận sự đóng góp, đồng nghiệp phải tự nguyện chấp nhận sự thừa nhận đó nhưng với điều kiện là họ không chịu trách nhiệm các kết luận được rút ra từ kết quả nghiên cứu. Tất cả các đồng tác giả đóng góp vào công trình nghiên cứu phải tự nguyện quyết định trật tự danh sách tên tác giả. Người đầu tiên phải là người liên quan trực tiếp đến công trình nghiên cứu. Các tác giả kế tiếp xuất hiện lần lượt dựa trên sự đóng góp của họ đối với công trình nghiên cứu. Trách nhiệm đối với xã hội Các nhà nghiên cứu giáo dục luôn ý thức trách nhiệm khoa học và nghề nghiệp đối với cộng đồng và xã hội nơi mà họ đang làm việc và sinh sống. Họ khám phá tri thức để góp phần làm cho cộng đồng và xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Khi thực hiện nghiên cứu, họ cố gắng làm gia tăng tri thức học thuật và khoa học để phục vụ sự phát triển và tiến bộ của cộng đồng [AERA, 2011]. 2.2 Tiêu chuẩn của đạo đức nghiên cứu Quyền tác giả 3 Journal of Science – 2016, Vol. 9 [1], 1 – 9 Part A: Social Sciences, Humanities and Education gọi là những người bình duyệt. Tiến trình bình duyệt liên quan đến những bước sau: a] các bình duyệt và các biên tập đọc và đánh giá bài báo; b] các bình duyệt đệ trình các nhận xét cho biên tập viên tạp chí; c] biên tập viên tạp chí thu nhận những nhận xét này và chuyển cho tác giả chính của bài báo [University of Minnesota, 2003, tr.15]. Tiến trình bình duyệt hiếm khi tiến triển theo một đường thẳng. Toàn bộ tiến trình liên quan đến một số vòng tương tác giữa biên tập viên, các bình duyệt và tác giả bài báo trước khi bài báo được xuất bản. Một công trình có chất lượng sẵn sàng cho việc xuất bản phải đảm bảo các tiêu chuẩn sau: a] tầm quan trọng – nghiên cứu ảnh hưởng đến cộng đồng xã hội không?; b] sự hữu ích – nghiên cứu có cung cấp những thông tin khoa học hữu ích không?; c] sự liên quan – nghiên cứu có phù hợp với lĩnh vực xuất bản của tạp chí không?; d] phương pháp nghiên cứu – nghiên cứu có được thực hiện bằng các phương pháp khoa học phù hợp, cho phép các nhà nghiên cứu trả lời câu hỏi nghiên cứu không?; e] đạo đức nghiên cứu – nghiên cứu được thực hiện có đảm bảo các vấn đề đạo đức không?; f] kết quả nghiên cứu – kết quả được tường trình có chính xác và chân thật không?; g] sự đầy đủ – tất cả thông tin liên quan đến nghiên cứu có thể hiện trong công trình nghiên cứu không?; h] sự chính xác – sản phẩm nghiên cứu có là một sự phản ánh chân thật tiến trình và kết quả nghiên cứu không? [Jefferson, Wagner, & Davidoff, 2002]. Ngăn chặn trình trạng đạo văn Đạo văn là hành động mạo nhận ý tưởng, quan điểm, hình ảnh, lý thuyết, ngôn từ hoặc những câu chuyện của người khác và xem chúng là của mình [University of Minnesota, 2003]. Sự đánh cắp xảy ra khi nhà nghiên cứu sử dụng ý tưởng của người khác hoặc chép công trình của người khác mà không chú thích nguồn. Đây được xem là một loại trộm cắp học thuật, phi đạo đức. Nếu một nhà nghiên cứu đánh cắp tác phẩm, công trình của người khác thì sự ngờ vực sẽ xảy ra xoay quanh tính liêm khiết, đạo đức và sự chân thật của toàn bộ công trình nghiên cứu của họ. Ngoài ra, sự đánh cắp là một hành vi bất hợp pháp và phải chịu sự trừng phạt. Trong thực tế, sự đánh cắp diễn ra dưới nhiều hình thức. Hình thức dễ dàng nhận thấy nhất, đó là nhà nghiên cứu chép từ 4 từ trở lên mà không sử dụng dấu nháy và chú thích tác giả, hoặc chép nguyên một văn của người khác, đặt nó vào trong bài viết của mình mà không trích dẫn nguồn [AERA, 2011; University of Minnesota, 2003]. Nếu nhà nghiên cứu sử dụng từ 40 từ hoặc hơn thì họ cần trích dẫn nguồn, tác giả, ghi số trang và thụt dòng nguyên đoạn văn trích. Bất kỳ công trình nghiên cứu nào cũng phải trích dẫn nguồn khi viết bản thảo hay bản chính [Northwestern University, www.writing.nwu.edu/tip/plag.html]. Nhà nghiên cứu cần: a] trích dẫn ngôn ngữ viết hoặc ngôn ngữ lời nói của người khác; b] diễn giải ngôn ngữ viết hoặc ngôn ngữ lời nói của người khác; c] sử dụng quan điểm, tư tưởng của người khác; d] vay mượn những con số, sự kiện, biểu bảng thống kê. Để tránh sự đánh cắp công trình của người khác, một nhà nghiên cứu phải: a] trích dẫn tất cả ý tưởng và thông tin mà không thuộc của mình; b] sử dụng dấu nháy nếu sử dụng từ của người khác [Indiana University, www.campuslife.indiana.edu/Code/]. Hai khái niệm quan trọng nhất trong tiến trình bình duyệt, đó là tính cẩn mật và quyền sở hữu trí tuệ [University of Minnesota, 2003]. Các bình duyệt không được biết tác giả [hoặc nhóm tác giả] của công trình nghiên cứu mà họ đang bình duyệt, và tác giả [hoặc nhóm tác giả] không được biết tên của các bình duyệt. Không một ai liên quan đến tiến trình bình duyệt, ngoại trừ biên tập viên, các bình duyệt hoặc đội ngũ tòa soạn. Để đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ thì nguy cơ về sự xung đột do mối quan hệ cá nhân, yếu tố chính trị, kết quả nghiên cứu và tài chính cần phải được loại trừ [Lawrence, 2003]. Bình duyệt đồng đẳng Bình duyệt là một tiến trình, ở đó một tác giả [hoặc một số tác giả] đệ trình một bản thảo công trình nghiên cứu hoặc một bài báo cho một tạp chí để xuất bản, và sau đó biên tập viên của tạp chí gửi bài báo đó cho các chuyên gia làm việc cùng chuyên môn khoa học. Các chuyên gia này được 4 Journal of Science – 2016, Vol. 9 [1], 1 – 9 Part A: Social Sciences, Humanities and Education phương pháp thu thập số liệu, hỗ trợ việc khám phá những chủ đề nghiên cứu mới, cho phép sự sáng tạo cơ sở dữ liệu mới thông qua việc kết nối dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau. [National Institues of Health Office of Extramural Research [NIH],www.grants.nih.gov/grants/policy/data_sh aring/data_sharing_faqs.htm,trích từ University of Minnesota, 2003, tr.23]. Quản lý dữ liệu Quản lý dữ liệu liên quan đến ba vấn đề: a] thu thập dữ liệu tin cậy, chân thật; b] quyền sở hữu và trách nhiệm đối với dữ liệu được thu thập; và c] quản lý dữ liệu và chia sẻ sự tiếp cận dữ liệu với đồng nghiệp và cộng đồng [University of Minnesota, 2003; The online Resource for Instruction in Responsible Conduct of Research, University of california, www.rcr.ucsd.edu/data.htm]. Tất cả ba vấn đề này góp phần vào việc hình thành tính chân thật của một nghiên cứu. Để đảm bảo công việc quản lý dữ liệu hiệu quả thì ở giai đoạn đầu của công trình nghiên cứu một kế hoạch chi tiết rõ ràng cần được xác lập và hoạch định. Để đảm bảo ba vấn đề đối với quản lý dữ liệu đạt hiệu quả cao thì các nhà nghiên cứu phải xác định các câu trả lời có những câu hỏi sau để giải quyết tất cả các vấn đề quản lý dữ liệu theo trật tự thời gian trước và trong khi thực hiện dự án nghiên cứu:  Ai có trách nhiệm đối với dữ liệu [Người này thường là nhà nghiên cứu chính của dự án nghiên cứu và có trách nhiệm đối với việc thiết kế các phương pháp thu thập dữ liệu].  Dữ liệu được thu thập như thế nào? [Dữ liệu sẽ được thu thập thông qua điện thoại, thư tín, phỏng vấn cá nhân, đĩa thu âm đang tồn tại, nguồn dữ liệu thứ cấp, v.v.?]  Dữ liệu có được mã hóa không? Nếu có, tại sao?  Dữ liệu sẽ được lưu trữ như thế nào? [Dữ liệu sẽ được lưu trữ bằng máy điện toán, giấy, v.v.?]  Ai sẽ đảm bảo rằng không có dữ liệu nào bị loại khỏi kết quả cuối cùng và đảm bảo sự chính xác của sự diễn giải dữ liệu?  Dữ liệu sẽ được lưu trữ bao lâu khi dự án nghiên cứu kết thúc? [Điều này phụ thuộc vào nguồn tài chính và chính sách tổ chức]. Sự thu thập dữ liệu mang tính đạo đức ám chỉ đến quá trình thu thập dữ liệu mà không làm tổn thương đến người khác [AERA, 2011]. Sự thu thập dữ liệu chân thật ám chỉ dữ liệu mà một khi được thu thập thì nó không bị thay đổi. Đảm bảo trách nhiệm đối với việc thu thập và trách nhiệm quản lý dữ liệu là một trong những vấn đề đạo đức quan trọng nhất khi thực hiện một dự án nghiên cứu [University of Minnesota, 2003]. Trách nhiệm bao gồm những vấn đề quan trọng sau: a] xem xét thận trọng phương pháp thu thập dữ liệu; b] bảo vệ chủ thể nghiên cứu khỏi bị tổn thương; c] lưu trữ dữ liệu một cách an toàn để duy trì tính chân thật và bí mật của dữ liệu; d] xác lập trách nhiệm chia sẻ dữ liệu với người khác; và e] sử dụng dữ liệu có trách nhiệm và sự mô tả kết quả dữ liệu một cách chân thật [University of Minnesota, 2003, tr. 22]. Vấn đề chia sẻ dữ liệu thì khá phức tạp xét dưới góc độ tình cảm cá nhân, trách nhiệm và quyền sở hữu. Mặc dù, mang tính phức tạp nhưng chia sẻ dữ liệu được xem là một chỉ dấu xác nhận của cộng đồng khoa học, đặc biệt trong giới học thuật. Tầm quan trọng của sự chia sẻ dữ liệu được mô tả như sau: [University of Minnesota, 2003, tr.23-24]. Ngăn chặn sự vi phạm đạo đức nghiên cứu Sự vi phạm đạo đức nghiên cứu [misconduct] là tiến trình xác định và tường trình một kết quả nghiên cứu không mang tính đạo đức hoặc một nghiên cứu không hợp lô gíc. Sự vi phạm đạo đức nghiên cứu được định nghĩa như là hoạt động nặn ra dữ liệu, giả tạo dữ liệu, hoặc đánh cắp dữ liệu trong giai đoạn hình thành đề cương nghiên cứu, thực hiện nghiên cứu, hoặc tường trình kết quả nghiên cứu [The Office of Scientific and Chia sẻ dữ liệu đạt được nhiều mục đích quan trọng đối với cộng đồng khoa học, chẳng hạn như tăng cường những nghiên cứu khoa học mở rộng, khuyến khích sự đa dạng việc sử dụng phương pháp thu thập số liệu, thúc đẩy những nghiên cứu mới, kiểm định các giả thuyết thay thế, và các 5 Journal of Science – 2016, Vol. 9 [1], 1 – 9 Part A: Social Sciences, Humanities and Education Technology Policy [OSTP], www.ostp.gov/html/001207_3.html]. Nặn ra dữ liệu là việc tạo ra dữ liệu hoặc kết quả và ghi lại hoặc tường trình kết quả đó. Ngụy tạo dữ liệu là việc làm sai lệch vật liệu và công cụ nghiên cứu, hoặc tiến trình nghiên cứu, thay đổi hoặc xóa bỏ dữ liệu, kết quả hiển thị trong bảng dữ liệu nghiên cứu. Sự đánh cắp là sự chiếm đoạt các ý tưởng, quy trình, kết quả, hoặc ngôn từ của người khác mà không ghi chú thích hợp lý. Sự vi phạm đạo đức nghiên cứu được xem là một hành vi lười biếng, cẩu thả, và nó còn được xem là hành vi phạm tội [University of Minnesota, 2003]. Để ngăn ngừa và phát hiện sự vi phạm đạo đức nghiên cứu thì việc sử dụng các nhà phản biện nghiên cứu bên ngoài và tiến trình bình duyệt khách quan là cần thiết để duy trì tính chân thật khoa học của một nghiên cứu.     Khi phát hiện một người có hành vi vi phạm đạo đức nghiên cứu thì bước đầu tiên là thực hiện một cuộc đối thoại bí mật giữa người phát hiện và người có trách nhiệm thẩm tra tính chân thật của nghiên cứu ở cơ quan, trường học. Một khi hành vi vi phạm đạo đức đã được xác định thì tất cả các bên liên quan đến nghiên cứu, bao gồm nhà nghiên cứu chính, các đồng nghiên cứu, đơn vị chủ trì nghiên cứu, cơ quan hỗ trợ tài chính… phải có trách nhiệm giải quyết trình trạng này. Khi một người bị nghi ngờ có hành vi vi phạm đạo đức nghiên cứu thì giai đoạn đầu tiên là mở một cuộc đối thoại. Nếu cuộc đối thoại cho thấy rõ ràng hành vi vi phạm đạo đức nghiên cứu thì bước thứ hai là thực hiện một cuộc thanh tra toàn diện. Cuối cùng, nhà trường sử dụng thông tin thu thập được trong quá trình thanh tra để ra quyết định liên quan đến hành vi vi phạm đạo đức và biện pháp trừng phạt [University of Minnesota Office of the Vice President of research, www.research.umm.edu/curriculum]. chân thật của nghiên cứu, người chịu trách nhiệm đánh giá hành vi vi phạm đạo đức là đúng và hành vi này có thuộc thẩm quyền của trường hay không. Nhà trường cần đối xử công bằng và trân trọng đối với người trình báo hành vi vi phạm đạo đức. Công việc và vị trí việc làm của họ cần được bảo vệ khi cần thiết. Nhà trường cũng cần đối xử công bằng và trân trọng đối với người có hành vi vi phạm đạo đức. Nhân viên chịu trách nhiệm về tính chân thật của nghiên cứu cố gắng duy trì tính bí mật của cả người tố cáo và bị tố cáo về hành vi vi phạm đạo đức nghiên cứu. Nếu hành vi vi phạm đạo đức là hành vi có tính chất tội phạm, hoặc hành vi vượt thẩm quyền của trường thì nhân viên chịu trách nhiệm về tính chân thật của nghiên cứu tường trình vụ việc cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết. [Department of Health and Human Services Offices of Research Integrity, www.ori.dhhs.gov/multimedia/acrobat/mod_pro.p df]. Trân trọng người tham gia nghiên cứu Nghiên cứu liên quan đến con người gắn kết với các vấn đề lớn mà nhà nghiên cứu cần chú ý, đó là trân trọng đối với người tham gia nghiên cứu, bảo mật thông tin và sự riêng tư của người tham gia, bảo vệ sự công bằng, bảo vệ lợi ích của người tham gia. Nghiên cứu cần phải trân trọng và bảo mật thông tin của người tham gia nghiên cứu. Trân trọng con người [sự đồng thuận có ý thức] Trân trọng người tham gia nghiên cứu phải được đảm bảo bằng một văn bản đồng thuận có ý thức [informed consent]. Văn bản đồng thuận có ý thức là một yếu tố đạo đức cơ bản trong nghiên cứu khoa học liên quan đến con người [University of Minnesota, 2003]. Các nhà nghiên cứu không thể thực hiện nghiên cứu của họ khi không được sự chấp thuận của người tham gia. Văn bản đồng thuận có ý thức là bản chấp thuận của người tham gia trong một nghiên cứu sau khi người tham gia Làm thế nào khi nghi ngờ một nhà khoa học có hành vi vi phạm đạo đức nghiên cứu? DHHSOR đề xuất 5 bước như sau:  Một người nghi ngờ một nhà khoa học có hành vi vi phạm đạo đức cần tường trình sự việc với nhân viên chịu trách nhiệm về tính 6 Journal of Science – 2016, Vol. 9 [1], 1 – 9 Part A: Social Sciences, Humanities and Education thông hiểu tường tận về mục đích, tiến trình, rủi ro, lợi ích và tính bảo mật của một nghiên cứu. cho người tham gia thông tin này và chỉ khi người tham gia đồng ý thì nhà nghiên cứu mới được phép tiến hành nghiên cứu. Văn bản đồng thuận có ý thức tồn tại để đảm bảo rằng tất cả các nghiên cứu liên quan đến đối tượng nghiên cứu là con người phải được đảm bảo tham gia một cách tự nguyện, không bị ép buộc tham gia [University of Minnesota, 2003]. Có ba yêu cầu đối với một văn bản đồng thuận có ý thức, đó là cung cấp thông tin cho người tham gia, đảm bảo người tham gia hiểu thông tin, và đảm bảo sự tự nguyện của người tham gia [National Institues of Health Office of Human Subjects Research, www.206.102.88.10/ohsrsite/guidelines/belmont. html]. Trân trọng người tham gia [sự riêng tư và tính bảo mật] Bảo mật thông tin là một thành tố rất quan trọng đối với các nghiên cứu liên quan đến con người [AREA, 2011]. Nhà nghiên cứu được yêu cầu là phải bảo vệ tính bảo mật của người tham gia và thông tin người tham gia cung cấp. Thành tố đạo đức này liên quan đến khái niệm sự riêng tư. Sự riêng tư nói đến việc kiểm soát sự tiếp cận thông tin của người khác về một người cụ thể. Quyền của con người là có thể cung cấp hoặc không cung cấp thông tin mà họ muốn. Tôn trọng sự riêng tư của người tham gia nghiên cứu là tâm điểm của lối ứng xử nghiên cứu đạo đức. Các nhà nghiên cứu cố gắng đảm bảo sự riêng tư của người tham gia nghiên cứu thông qua việc thu thập thông tin ẩn danh hoặc đảm bảo thông tin thu thập được bảo mật. Sự ẩn danh là cách tốt nhất để bảo vệ sự riêng tư bởi vì sự ẩn danh có nghĩa là nhà nghiên cứu không biết nhân dạng của người tham gia [Johnson & Christensent, 2012]. Sự bảo mật là một phương tiện khác mà nhà nghiên cứu sử dụng để bảo vệ sự riêng tư của người tham gia nghiên cứu. Sự bảo mật, trong ngữ cảnh của một nghiên cứu, nói đến một sự đồng ý với các nhà nghiên cứu về những gì có thể được thực hiện bằng thông tin thu thập được về một người tham gia nghiên cứu. Điều này có nghĩa rằng nhân dạng của người tham gia không được tiết lộ đối với bất kỳ người nào [AREA, 2011]. Yêu cầu đầu tiên là thông tin cung cấp cho người tham gia nghiên cứu phải bao gồm mục đích nghiên cứu, tiến trình nghiên cứu, những rủi ro và lợi ích của người tham gia nghiên cứu, tính bảo mật của người tham gia nghiên cứu, quyền được cung cấp thông tin liên quan đến nghiên cứu và quyền được rút khỏi cuộc nghiên cứu [University of Minnesota, 2003]. Yêu cầu thứ hai là sự lĩnh hội. Sự lĩnh hội có nghĩa là nhà nghiên cứu phải làm cho thông tin dễ hiểu đối với tất cả người tham gia nghiên cứu. Điều này đòi hỏi nhà nghiên cứu phải xem xét khả năng, trình độ và năng lực ngôn ngữ khác nhau của những người tham gia nghiên cứu. Yêu cầu thứ ba là sự tự nguyện. Người tham gia nghiên cứu phải thật sự tự nguyện tham gia chứ không bị cưỡng ép tham gia vào trong nghiên cứu. Sự chấp thuận trên cơ sở đầy đủ thông tin của một người có đủ năng lực để nhận được các thông tin cần thiết, hiểu đầy đủ các thông tin được cung cấp, tự bản thân đưa ra quyết định tham gia mà không bị ép buộc, dẫn dụ hoặc dọa nạt. Văn bản đồng thuận có ý thức bao gồm những thông tin: tên đề tài nghiên cứu, tên chủ nhiệm đề tài và các cộng sự [nếu có], cơ quan thực hiện, số điện thoại liên hệ, thời gian thực hiện đề tài và thời gian người tham gia liên quan đến đề tài, mục đích nghiên cứu, mẫu nghiên cứu, công cụ nghiên cứu, nguy cơ và lợi ích của người tham gia nghiên cứu, tính bảo mật của thông tin người tham gia cung cấp, địa chỉ liên hệ khi có thắc mắc. Chỉ khi nào nhà nghiên cứu cung cấp 3. HỘI ĐỒNG XÉT ĐỊNH CHẾ HOẶC ỦY BAN ĐẠO ĐỨC Yêu cầu mang tính pháp lý đối với những nghiên cứu liên quan đến con người phải được thẩm tra bởi Ủy ban đạo đức. Ủy ban đạo đức [Ethics Committee] được thành lập ở các trường đại học và phải có chính sách đảm bảo để bảo vệ những nguy cơ, rủi ro trong nghiên cứu liên quan đến con người [Johnson & Christensen, 2012]. Nếu một trường đại học có ủy ban này thì tất cả các đề cương nghiên cứu liên quan đến con người đều phải đệ trình cho ủy ban này để xác định nghiên 7 Journal of Science – 2016, Vol. 9 [1], 1 – 9 Part A: Social Sciences, Humanities and Education  Để bảo vệ quyền của nhà nghiên cứu khi thực hiện cuộc điều tra hợp pháp cũng như danh tiếng của trường đại học trong lĩnh vực nghiên cứu.  Để giảm thiểu những bất cẩn của cá nhân nhà nghiên cứu, trường đại học và các cộng sự tham gia nghiên cứu.  Để tạo điều kiện cho nhà nghiên cứu xuất bản kết quả nghiên cứu của mình. cứu có tạo ra những rủi ro cho người tham gia hay không. Trong quá trình thẩm tra đề cương nghiên cứu, các thành viên của ủy ban đạo đức được yêu cầu ra những phán quyết liên quan đến sự phù hợp về mặt đạo đức của đề cương nghiên cứu và đảm bảo rằng đề cương nghiên cứu đã được giải thích cho người tham gia nghiên cứu, và rằng không có bất kỳ một nguy cơ tổn thương nào đối với người tham gia. Để làm những quyết định này, các thành viên của Ủy ban đạo đức phải có đầy đủ những thông tin về cuộc nghiên cứu. Điều này có nghĩa rằng nhà nghiên cứu phải đệ trình đề cương nghiên cứu hoàn chỉnh cho Ủy ban đạo đức. [Johnson & Christensen, 2012]. Một đề cương nghiên cứu đệ trình cho Ủy ban đạo đức cần có những thông tin: Tên đề cương, nhà nghiên cứu chính, đồng nghiên cứu [nếu có], bối cảnh nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, người tham gia nghiên cứu, thiết kế nghiên cứu, công cụ nghiên cứu, phương pháp phân tích dữ liệu, tiến trình nghiên cứu, lợi ích tiềm năng, những rủi ro, và tính bảo mật. Một khi đề cương nghiên cứu đã được đệ trình, những nhân viên quản lý thuộc Ủy ban đạo đức quyết định đề cương này có cần được thẩm tra bởi tất cả các thành viên của ủy ban hay không. Có ba dạng thẩm tra mà Ủy ban đạo đức quyết định đối với một đề cương nghiên cứu. Dạng thứ nhất là thẩm tra miễn trừ. Những nghiên cứu miễn trừ là những nghiên cứu cho thấy không có bất kỳ một nguy hại rủi ro nào được tìm thấy đối với người tham gia và nghiên cứu này không cần phải thẩm tra bởi tất cả các thành viên của Ủy ban đạo đức. Dạng thứ hai là thẩm tra rút gọn. Thẩm tra rút gọn là một tiến trình ở đó một nghiên cứu được thẩm tra nhanh bởi một vài thành viên của Ủy ban đạo đức. Những nghiên cứu được xác định là thẩm tra rút gọn liên quan đến những rủi ro nhưng ở mức tối thiểu. Dạng thứ ba là thẩm tra toàn hội đồng hay thẩm tra bởi tất cả các thành viên của hội đồng. Những nghiên cứu khi được thẩm tra bởi dạng này thường cho thấy có nhiều rủi ro liên quan đến người tham gia nghiên cứu. 4. KẾT LUẬN Đạo đức nghiên cứu có vai trò tối quan trọng đối với tất cả những người thực hiện các dự án nghiên cứu hoặc sử dụng và ứng dụng các kết quả từ những nhận định nghiên cứu vì bất kỳ một nghiên cứu nào cũng nhằm phục vụ cộng đồng và xã hội. Đạo đức nghiên cứu có chức năng bảo vệ quyền và lợi ích của người tham gia trong dự án nghiên cứu; gìn giữ những giá trị của cộng đồng; mang lại lợi ích cho những người liên quan và cộng đồng bằng những giá trị nghiên cứu có chất lượng nhất; thực hiện trách nhiệm của cá nhân nhà nghiên cứu đối với xã hội [Johnson & Christensen, 2012]. Do vậy, đạo đức nghiên cứu có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc ngăn chặn những nghiên cứu thiếu nghiêm túc, vô trách nhiệm đồng thời hạn chế tối đa những nguy hại tiềm ẩn cho người tham gia trong nghiên cứu. Để được xem là một nghiên cứu có chuẩn mực đạo đức cao thì tất cả các giai đoạn của một nghiên cứu – từ giai đoạn thiết kế đề cương nghiên cứu đến giai đoạn đệ trình kết quả nghiên cứu – cần phải tuyệt đối trung thực. Một nghiên cứu phải đảm bảo 4 nguyên tắc, đó là tính chân thật; trách nhiệm học thuật, khoa học, và nghề nghiệp; tôn trọng quyền, phẩm giá, và sự khác biệt của con người; và trách nhiệm đối với xã hội; và tuân thủ Khi Ủy ban đạo đức xét thấy một nghiên cứu cụ thể không gây nguy hại cho người tham gia thì họ sẽ cấp cho nhà nghiên cứu văn bản chấp thuận đạo đức [ethical approval]. Văn bản chấp thuận đạo đức đối với những nghiên cứu liên quan đến con người bắt buộc phải có vì những nguyên nhân sau:  Để bảo vệ quyền và lợi ích của người tham gia và giảm thiểu những rủi ro về mặt thể chất và tinh thần của người tham gia trong tiến trình nghiên cứu. 8 Journal of Science – 2016, Vol. 9 [1], 1 – 9 Part A: Social Sciences, Humanities and Education 6 chuẩn mực cơ bản, đó là thực hiện quyền tác giả, ngăn chặn trình trạng đạo văn, bình duyệt đồng đẳng, quản lý dữ liệu, ngăn chặn sự vi phạm đạo đức nghiên cứu, và trân trọng người tham gia nghiên cứu. Từ những phân tích về vai trò của đạo đức nghiên cứu, Ủy ban đạo đức ở các trường đại học tại Việt Nam nhất thiết phải được thành lập nhằm mục đích đảm bảo những nghiên cứu nghiêm túc có chất lượng cao, đồng thời ngăn chặn những nghiên cứu cẩu thả có chất lượng thấp. Johnson, B., & Christensen, L. [2012]. Educational Research: Quantitative, Qualitative, and Mixed Approaches [2nd ed.]. Thousand Oaks: Sage Education, Inc. Lawrence, P. A. [2003]. The politics of publication. Nature, 422[6929]:259-261. National Institutes of Health Office of Extramural Research. Truy cập từ: //grants.nih.gov/grants/policy/data_sharin g/data_sharing_faqs.htm TÀI LIỆU THAM KHẢO Northwestern University. Truy cập từ: //www.writing.nwu.edu/tips/plag.html American Educational Research Association [AERA]. [2011]. Ethical standards of the American Educational Research Association. Educational Researcher, 21, 23-26. Shenton, A. K. [2004]. Strategies for Ensuring Trustworthiness in Qualitative Research Projects. Education for Information, 22, 63-75. The Office of Scientific and Technology Policy. Truy cập từ: //www.ostp.gov/html/001207_3.html British Educational Research Asociation. [2004]. Revised Ethical guidelines for Educational Research. Truy cập từ: //www2.le.ac.uk/institution/committees/r esearch-ethics/resources-andlinks/EDUCATIONALRESEARCH.pdf The Online Resource for Instruction in Responsible Conduct of Research website [hosted by the University of California]. Truy cập từ: //rcr.ucsd.edu/data.htm Department of Health and Human Services Offices of Research Integrity. Truy cập từ: www.ori.dhhs.gov/multimedia/acrobat/mod_pr oc.pdf Indiana University. Truy cập //campuslife.indiana.edu/Code/ University of Minnesota Office of the Vice President for Research website [curriculum on authorship written by Mark Dworkin]. Truy cập từ: www.research.umn.edu/curriculum từ: University of Minnesota. [2003]. A guide to research ethics. Truy cập từ //www.ahc.umn.edu/img/assets/26104/Re search_Ethics.pdf International Committee of Medical Journal Editors. Truy cập từ: www.icmje.org Jefferson, T., Wagner, E., & Davidoff, F. [2002]. Measuring the Quality of Editorial Peer Review. JAMA, 2002, 287:2786-2790. 9

This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.

Video liên quan

Chủ Đề