Nam Cao sáng tác theo khuynh hướng văn học nào

Nếu nói đến một nhà văn xuất sắc nhất trong trào lưu văn học hiện thực giai đoạn 1930-1945, bất kì người yêu văn nào cũng không ngần ngại gọi tên Nam Cao. Với bài viết này, AnyBooks sẽ tóm tắt, sơ lược một cách khá đầy đủ về con người sự nghiệp và cuộc đời của ông. Mời các bạn tham khảo!

1. Vài nét về tiểu sử và con người Nam Cao

Nam Cao [1915-1951] tên thật là Trần Hữu Tri, sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo tại phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam nay là huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Nhà Nam Cao nghèo, làng Đại Hoàng lại càng nghèo hơn. Đây là vùng chiêm trũng, nông dân xưa nghèo đói, bị ức hiếp, dục khoát.

Trong một gia đình nghèo, Nam Cao là người duy nhất được học hành tử tế. Những tưởng ông sẽ trở thành chỗ dựa vững chắc cho mọi người về sau, thế nhưng cuộc sống đói nghèo và bệnh tật vẫn cứ đeo đuổi Nam Cao từ bé. Sau khi học bậc thành chung, ông vào Sài Gòn làm báo rồi bị thất nghiệp. Sau đó ông lên Hà Nội dạy học trong một trường tư thục. Chính cuộc sống cực khổ nơi đây đã là chất men xúc tác cho những cảm nhận sâu sắc về thân phận người tri thức nghèo trong xã hội cũ, bị cuộc sống áo cơm ghì sát đất không ngóc đầu lên được.

Sau cách mạng tháng Tám, Nam Cao giác ngộ lí tưởng cách mạng và lên Việt Bắc tham gia công tác kháng chiến. Thế nhưng vào năm 1951 Nam Cao đã ngã xuống bỏ lại bao dự định dang dở lúc tài năng đang đương độ chín mùi. Ông đã hy sinh một cách anh dũng trong tư cách một nhà văn chiến sĩ, trong khao khát tiếp tục có nhiều đóng góp cho dân tộc, cho quê hương.

Nam Cao là một người trí thức trung thực vô ngần, luôn đấu tranh nghiêm khắc với chính mình để thoát khỏi lối sống tầm thường, nhỏ nhen của xã hội đương thời. Nội tâm của ông thường xuyên diễn ra sự dằn vặt khỏi những ham muốn dục vọng thấp hèn để vươn tới những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Sự day dứt, dằn vặt của ông còn thể hiện ở cảm nhận chịu ơn, mắc nợ với những người thân trong gia đình. Có lần ông đã tâm sự trong cuốn tiểu thuyết Sống mòn: “ …Biết bao nhiêu lần đang đi đến một tiệm ăn, y sực nhớ đến bà, mẹ, vợ, em mà lại thấy chân rã rời, bước ngập ngừng hơn một chút, rồi đột nhiên quay gót lại. Biết bao nhiêu lần, giữa một bữa ăn vui do một người bạn có tiền mời, hình ảnh một bà cụ già nuốt nước bọt thầm hay một đứa em lấm lét nhìn trộm nồi cơm để ước lượng xem nó có còn hi vọng gì được thêm một lượt xới nữa chăng, đột nhiên hiện ra, khiến y đang ăn uống ngon lành bỗng ngẩn mặt thẫn thờ…”

Ngoài ra, Nam Cao còn có vẻ bề ngoài lạnh lùng ít nói nhưng là người có tấm lòng đôn hậu, chan chứa tình yêu thương, gắn bó sâu nặng với quê hương đất nước, những người nghèo khổ. Vì thế trong các sáng tác của ông luôn có sự trăn trở, rằng viết làm sao cho đúng, cho chân thực và gần gũi với người dân.

2. Sự nghiệp sáng tác

a. Quan điểm nghệ thuật

Theo Nam Cao, văn chương phải vì con người, phải trung thực, không nên viết những giả dối, cuồng phím. Quan điểm của ông chính là nghệ thuật vị nhân sinh… “Văn học phải gắn bó với đời sống của nhân dân lao động: “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ kiếp lầm than” [Trăng sáng].

Tác phẩm văn học phải có ý nghĩa xã hội rộng lớn, sâu sắc, phải có nội dung nhân đạo sâu sắc. “...phải là một tác phẩm chung của tất cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì đó lớn lao, cao cả, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng tình thương, lòng bác ái, sự công bình. Nó làm cho người gần người hơn.” [Đời thừa]

Người viết văn phải không ngừng sáng tạo, tìm tòi. Nhà văn phải có vốn sống phong phú thì mới viết được tác phẩm có giá trị. “Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”.

Nhà văn phải có lương tâm nghề nghiệp. “Sự cẩu thả trong bất kì nghề gì cũng là sự bất lương rồi. Còn sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện.” Những điều trên cho thấy Nam Cao đã ý thức được sứ mệnh cao cả của người cầm bút: “Muốn viết cho nhân đạo trước hết phải sống cho nhân đạo.”

b. Các đề tài chính

Truyện của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám tập trung hai đề tài chính: cuộc sống người trí thức nghèo và cuộc sống người nông dân nghèo. Tác phẩm của ông thường chỉ xoay quanh một tư tưởng chung: niềm băn khoăn trước tình trạng con người bị hủy hoại về mọi mặt do hoàn cảnh đói nghèo đưa tới.

Người trí thức nghèo:Miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội cũ. Họ có hoài bão, lý tưởng, tài năng nhưng bị gánh nặng cơm áo gạo tiền và hoàn cảnh xã hội bóp nghẹt trở thành những người thừa sống mòn. Qua đó, phê phán xã hội phi nhân tính đã tàn phá tâm hồn con người đồng thời thể hiện niềm khao khát một cuộc sống có ích, thực sự có ý nghĩa

Người nông dân:Đó là bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam nghèo đói thế thảm trước những năm 1945. Ông đã tập trung khắc họa cuộc sống của những người thấp của bé họng bị chà đạp, nhẫn nhục và những người bị đẩy vào tình trạng bần cùng hóa, bị tha hóa, lưu manh hóa. Khi sáng tác ông thời đi sâu miêu tả tâm lí để khẳng định bản chất lương thiện của họ. Đồng thời cũng kết án xã hội tàn bạo đã hủy diệt nhân tính của những người nông dân hiền lành đồng thời khẳng định nhân phẩm và bản chất lương thiện của họ.

3. Phong cách nghệ thuật:

Nam Cao thường viết về cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh, tầm thường trong đời sống hàng ngày, từ đó đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã hội to lớn, những triết lý sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ thuật. Ngòi bút Nam Cao vừa tỉnh táo, sắc lạnh, nặng trĩu suy nghĩ và đằm thắm yêu thương. Truyện ngắn của Nam Cao vừa hết sức chân thực, vừa thấm đượm ý vị triết lý trữ tình. Những chuyện đời tưởng như vặt vãnh, tầm thường, nhàm chán khi vào trang viết của Nam Cao cũng trở nên hấp dẫn và gợi nhiều ý tưởng sâu sắc, lớn lao.

Nam Cao luôn có hứng thú khám phá “con người trong con người”. Ông có sở trường diễn tả, phân tích tâm lý con người. Nhiều người xem ông là là một nhà văn có biệt tài trong nghệ thuật phân tích, diễn tả tâm lí nhân vật. Để nhập vào những quá trình tâm lý phức tạp và thể hiện sinh động những quá trình ấy, ông thường chú trọng việc khắc họa tâm trạng; dựng đối thoại, độc thoại nội tâm; khai thác triệt để kết cấu tâm lí và thường sử dụng thành công hình thức tự truyện.

Truyện của Nam Cao mang tính triết lý sâu sắc – một thứ triết lí xuất phát ra từ cuộc sống thực và từ chính tâm tư đầy đau đớn, dằn vặt của nhà văn. Hình tượng nghệ thuật của ông thường gắn liền với những mệnh đề triết lí và thường gợi ra những tư tưởng giản dị mà sâu sắc. Ngôn ngữ Nam Cao sống động, uyển chuyển, tinh tế, gần với lời ăn tiếng nói quần chúng.

Với một tài năng lớn, giàu sức sáng tạo, Nam Cao đã góp phần quan trọng vào việc cách tân nền văn xuôi Việt Nam theo hướng hiện đại hóa. Đó là sự vận dụng khai thác những ưu thế của thể loại, đặc biệt là truyện ngắn; là cách tạo và thay đổi giọng điệu độc đáo, linh hoạt [khi tự sự lạnh lùng, khinh bạc, khi trữ tình sôi nổi, thiết tha; giọng điệu buồn thương chua chát, lạnh lùng mà đầy thương cảm, đằm thắm, yêu thương,…]; cách kể chuyện sáng tạo, lối hành văn linh hoạt…Tất cả đều cho thấy một lối viết độc đáo, thú vị, lôi cuốn.

Tuy chỉ cầm bút trong khoảng 15 năm nhưng với tài năng và lương tâm của mình, Nam Cao đã để lại cho nền văn học Việt Nam một lượng lớn tác phẩm có giá trị. Bức tranh xã hội mà Nam Cao dựng nên tuy không thật lớn lao, đồ sộ nhưng rất mực chân thực và sâu sắc. Ông xứng đáng là người kế tục cho truyền thống tốt đẹp của chủ nghĩa hiện thực, góp phần đưa trào lưu văn học này phát triển lên một trình độ nghệ thuật mới trong một giai đoạn tưởng chừng như bế tắc, khi mà lưỡi kéo kiểm duyệt của chính quyền thực dân trở lại hà khắc, văn học hiện thực không còn quy mô rộng lớn như trước, không còn mang tính chiến đấu trực tiếp mạnh mẽ như trước. Chính vì thế có thể nói Nam Cao là nhà văn xuất sắc nhất trong nền văn học hiện thực thời bấy giờ.

Viết bởi Đặng Vũ Quỳnh Như

Nam Cao là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học hiện thực Việt Nam[1930-1945] .Với 15 năm cầm bút, Nam Cao đã để lại cho công chúng những tác phẩm vô cùng xuất sắc,những quan điểm nghệ thuật vô cùng sâu sắc và giá trị

Có thể nói Ông đã xây dựng nên những nhân vật đã trở thành hình ảnh kinh điển trong văn học Việt Nam. Đó là những người nông dân bị đẩy vào bước đường cùng trở nên bần cùng,bất hạnh như Lão Hạc. Hay là tên lưu manh ,nát rượu chuyên rạch mặt ăn vạ  như Chí Phèo. Là người phụ nữ ngờ nghệch ,xấu xí tận cùng như Thị Nở…

Đó cũng có thể là những trí thức nghèo vật lộn trong cuộc đấu tranh giữa lương tâm nghệ thuật và nhu cầu cơm áo như anh giáo Thứ,nhân vật Hộ…Nam Cao luôn trăn trở với những số phận bất hạnh trong xã hội , những trang viết của ông luôn bám sát vào hiện thực cuộc sống. Bởi ông luôn tâm niệm một điều rằng: “Nghệ thuật vị nhân sinh”.Nghệ thuật chân chính trước hết là phải phục vụ con người.

Nam Cao

Tiểu sử nhà văn Nam Cao

Nam Cao sinh năm 1917 tên thật là Trần Hữu Tri. Ông sinh ra  tại Hà Nam,trong một gia đình công giáo bậc trung. Ông đã từng trải qua rất nhiều công việc mưu sinh khác nhau. Từ làm thư ký cho một hiệu may,dạy học ở trường tư,viết báo kiếm sống.

Ban đầu ,Nam Cao đến với văn chương chỉ vì mục đích mưu sinh.Ông viết để kiếm nhuận bút nuôi sống bản thân và gia đình. Thế nhưng có lẽ tài năng của ông đã khiến cho văn chương không chỉ còn là cái nghề mà đã trở thành nghiệp trong cuộc đời ông: “Nghiệp văn chương”. Kể từ đó Nam Cao đã ghi dấu ấn vô cùng lớn trong giới cầm bút thời bấy giờ với một loạt tác phẩm xuất sắc.

Mở đầu là truyện ngắn “Đôi lứa xứng đôi” vào năm 1941 hay còn gọi là “Cái lò gạch cũ” hoặc “Chí Phèo”.Truyện ngắn này được coi là một hiện tượng văn học thời đó với một cách tiếp cận vô cùng mới mẻ và đặc biệt của một nhà văn còn non trẻ về tuổi nghề.

Chí Phèo và Thị Nở ,hai nhân vật mà ông xây dựng nên với những cái xấu xí tận cùng cả về hình thức lẫn nhân cách.Thế nhưng ,ngòi bút nhân văn của Nam Cao đã khiến cho người đọc tiếp cận tới những khía cạnh khác của con người,của phần “Người” nằm sâu xa đâu đó trong phần “Con” của nhân vật.Ông phản ánh hiện thực thực đến trần trụi nhưng ẩn sâu trong đó là cả một sự đồng cảm với những phận người thấp bé dưới đáy của xã hội.

Sau truyện ngắn Chí Phèo ,một loạt tác phẩm sau đó của ông đều gây được tiếng vang lớn .Với: Lão Hạc ,Giăng Sáng,Đôi Mắt,Một Bữa No,Lang Rận ,Sống Mòn….đã đưa tên tuổi của ông lên một tầm cao mới,xứng đáng là một đại diện tiêu biểu của nền văn học hiện thực phê phán Việt Nam bên cạnh những tên tuổi lớn thời bấy giờ như Nguyễn Công Hoan,Vũ Trọng Phụng ,Ngô Tất Tố….

Năm 1951,trong  một lần đi công tác ông đã bị địch phục kích  và hy sinh .Sự ra đi của Nam Cao để lại vô vàn tiếc nuối trong lòng công chúng .Thế nhưng ,Nam Cao đã sống trọn vẹn cuộc đời  mình với tư cách một nhà văn ,nhà báo và một chiến sĩ cách mạng.Ông đã để lại hơn 60 truyện ngắn và hai tiểu thuyết…Trong đó đều là  những tác phẩm có giá trị cả về nội dung và nghệ thuật:

-Truyện ngắn: Lang Rận, ,Lão Hạc, Chí Phèo,Một bữa no,Giăng Sáng,Tư cách mõ,Một đám cưới…

-Tiểu thuyết: Sống mòn,Truyện người hàng xóm

-Bút ký: Đường vô Nam,Nhật ký ở rừng.

Quan điểm nghệ thuật của nhà văn Chí Phèo

Để định hình được phong cách sáng tác và đạt được đỉnh cao trong văn học hiện thực như lúc bấy giờ. Nam Cao cũng đã trải qua trào lưu lãng mạn đương thời [ cái mà sau này ông nhận ra là không phù hợp] với các tác phẩm : Nghèo,Đui mù,Những cánh hoa tàn…Thế nhưng qua quá trình chiêm nghiệm thực tế ông đã nhận ra một chân lý rằng “ Nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối…” .

Câu văn nổi tiếng trong truyện ngắn”Giăng Sáng” trở thành tuyên ngôn nghệ thuật của chính nhà văn. Đã đánh dấu bước ngoặt trong nghiệp cầm bút của ông.Sáng tác của ông dựa trên những quan điểm:

Nghệ thuật vị  nhân sinh

Ông xác định điều  này khi nhìn vào cuộc sống và tình hình đất nước. Trong thời kỳ đất nước khó khăn ,đời sống nhân dân vô cùng cực khổ,lầm than. Chế độ thực dân nửa phong kiến tồi tệ và thối nát. Với thực tế đó ,đòi hỏi người cầm bút – những người được gọi là tầng lớp trí thức phải tham gia vào đấu tranh. Lên án những bất công trong xã hội, phản ánh hiện thực khổ đau của người dân để đồng cảm xót thương hơn cho số phận của họ.

Nghệ thuật không nên lãng mạn rời xa thực tế mà phải luôn bám sát vào đời sống của con người. Nghệ thuật sinh ra từ những chất liệu của cuộc sống và quay trở lại phục vụ con người ,phục vụ cuộc sống. “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ là những tiếng đau khổ kia thốt ra từ những kiếp lầm than”.

Sống đã rồi hãy viết

Một quan điểm vô cùng đúng đắn và có giá trị  mà Nam Cao đã đề ra. Một khi nhà văn cầm bút để vẽ lên một nhân vật nào đó thì đòi hỏi phải hiểu về cuộc sống ,tính cách cũng như những điều sâu xa trong tâm hồn của họ. Đôi mắt của nhà văn phải nhìn mọi việc một cách đa chiều trên nhiều phương diện.

Nếu viết về đề tài người nông dân,ít nhất nhà văn cũng phải trải qua cuộc sống đó hoặc hiểu rõ về tầng lớp này thì mới có thể viết lên những trang văn chân thực.Nhà văn trước hết phải trải đời ,có nhiều kinh nghiệm cuộc sống thì mới có thể hiểu hết những ngóc ngách trong cuộc sống.

Nghệ thuật đòi hỏi phải sáng tạo

Với Nam Cao văn chương chính là hiện thực cuộc sống .Chính bởi điều này chúng ta bắt gặp trong những trang viết của ông là những phận người rất đời thực ,những câu chuyện thật xuất phát từ chính cuộc sống hàng ngày.Thế nhưng ,tính hiện thực phải được kể một cách sáng tạo và mới mẻ chứ không rập khuôn ,máy móc ,khô cứng.

Đây là một điểm vô cùng đặc biệt trong phong cách sáng tác của Nam Cao.Ông đã từng khẳng định điều này trong truyện ngắn “Đời thừa”:“Văn chương không cần những người thợ khéo tay làm theo một và kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những ai biết đào sâu, biết tìm tòi khơi những nguồn chưa ai khơi, sáng tạo những gì chưa có”.

Nhà văn phải có trách nhiệm với những gì mình viết

Văn chương đi lên từ hiện thực, ảnh hưởng tới cuộc sống. Bởi vậy khi cầm bút viết ra bất cứ điều gì nhà văn cũng phải suy xét cẩn thận và tận tâm .Viết bằng cả trái tim và khối óc của mình. Trong “Đời thừa” ông đã viết :“Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện”.

Các đề tài chính của nhà văn Nam Cao

Trong  những tác phẩm của Nam Cao ,ông viết rất nhiều về những phận đời trong xã hội. Trong đó tập trung vao hai đề tài chính:

Người nông dân nghèo

Người nông dân trong những trang viết của Nam Cao là tầng lớp thấp bé và bị đối xử bất công nhất trong xã hội. Khác với những nhà văn đương thời đều phản ánh những khổ đau,đói khát ,túng quẫn của người nông dân thì Nam Cao lại có một cách tiếp cận vô cùng khác biệt. Cũng là người nông dân nghèo khổ ,bất hạnh đó nhưng ông đã tìm thấy những nét lương thiện trong sâu thẳm con người của họ.

Họ bị cả xã hội rẻ rung ,bị đẩy vào bước đường cùng trở nên lưu manh ,tha hóa.Bi kịch của họ chính là do chế độ thối nát ,họ bị đàn áp bóc lột dã man.Thế nhưng cho dù xấu xa ,tha hóa tới cỡ nào thì ẩn sâu trong họ cũng có những nét tốt đẹp đáng trân trọng.Họ cũng có những ước mơ đơn thuần ,giản dị  về mái ấm gia đình ,cũng khát khao trở thành người lương thiện.

Nhân vật Chí Phèo chính là hiện thân cho tấn bi kịch này. Chí Phèo trở nên cục súc ,chuyên rạch mặt ăn vạ do từ đâu mà ra ? Chí cũng khát khao một cuộc sống bình thường như bao nhiêu người khác nhưng “Ai cho tôi lương thiện” . Câu nói của nhân vật Chí Phèo cũng chính là suy nghĩ của nhà văn, ông đề cao quyền sống của con người và khát khao được làm một con người chân chính.

Người trí thức nghèo khó

Đây có lẽ là đề tài ám ảnh và trăn trở  nhất của Nam Cao.Ông tập trung miêu tả cuộc khủng hoảng tinh thần của những người tri thức đương thời. Đó có thể là những nhà văn như Nam Cao,những ông giáo khổ trường tư vật lộn trong cuộc đấu tranh giữa lương tâm nghệ thuật và nhu cầu cơm áo. Là khát khao được sống với đam mê, được cầm bút để viết lên những trang viết hay nhưng lại bị gánh nặng cơm áo hằng ngày bóp nghẹt. Là sự túng quẫn ,chật vật trong cái nghèo để những hoài bão của cuộc đời chết dần chết mòn theo năm tháng.Để rồi sống một cuộc đời thừa thãi ,nhạt nhẽo,héo mòn như “Đời thừa” ,”Sống mòn”….

Trong xã hội đương thời ,khi mà thân phận những người trí thức tiểu tư sản như Nam Cao chỉ nhỉnh hơn tầng lớp nông dân một chút, họ không được coi trọng và ngược lại còn bị đối xử bất công.Tấn bi kịch tinh thần đó gây nên một cuộc khủng hoảng sâu rộng trong cuộc sống,khiến những người trí thức “Sống mà như đã chết.”

Video liên quan

Chủ Đề