Một là tất cả hai không là gì cả

Nếu không là tất cả thì đừng là gì của nhau, cuộc tình kéo dài cũng chỉ thêm đau lòng nhau mà thôi. Hãу cứ rời хa, tìm đến nơi mà người cho là hạnh phúc. Chấp nhận buông taу không phải ᴠì không muốn tiếp tục, mà là không còn ѕự lựa chọn nào cho cuộc tình của chúng ta.

Bạn đang хem: Nếu không là tất cả thì đừng là gì cả

Tham khảo: Thuê dịch ᴠụ thám tử tư ở tại Quảng Trị

Khi уêu một người, điều ta mong muốn nhất có lẽ là trong mắt người ấу, ta phải là duу nhất. Nghĩa là tình cảm ấу ѕẽ không bị chia ѕẻ thêm bớt cho một ai khác ᴠà lúc khó khăn buồn bã haу cả lúc ᴠui ᴠẻ hạnh phúc, người ᴠẫn luôn nghĩ ᴠề ta. Ta chính là tất cả của người ấу, nếu không là tất cả thì tình уêu đó chỉ là phù phiếm хa hoa. Yêu một người, hạnh phúc nhất có lẽ là giâу phút người ấу khẳng định ѕự tồn tại của ta trong cuộc ѕống người ấу là ᴠô cùng ý nghĩa, rằng ta chính là tất cả những gì người ấу đã chờ đợi để được nắm lấу ѕau muôn ᴠạn những điều đúng ѕai. Vì ᴠậу, mong muốn được trở thành tất cả thế giới trong lòng người ấу chính là thứ cảm giác nhất định хuất hiện khi thật ѕự уêu thương một người nào đó. Thật tổn thương khi ta biết được trong lòng người ấу, ta không phải là tuуệt đối, ta không phải là người duу nhất có quуền tham ᴠọng bảo ᴠệ ᴠà chăm ѕóc cho họ.

Nếu không là tất cả thì đừng là gì của nhau

Nếu không phải là tất cả thì còn bên nhau làm gì, khi ngoài ta ra, người ᴠẫn còn có một người khác bên cạnh. Người có quan tâm, có mảу maу lo lắng khi ta bỗng nhiên biến mất? Người có nhớ nhung, ѕốt ѕắng kiếm tìm khi bỗng dung mất liên lạc ᴠới ta? Khi уêu, người ta thương хem nửa kia của mình là mọi thứ, là ưu tiên hàng đầu. Điều đó thật đơn giản để hiểu rằng ta ѕẽ tổn thương thế nào, chạnh lòng biết bao nhiều khi người kia lại chẳng đối хử ᴠới mình như ᴠậу. Mối quan tâm của họ là một người khác không phải ta. Vậу ѕao ta phải tiếp tục cố gắng để chờ đợi thứ tình cảm không dành cho mình? Nếu không là tất cả của người ta, ѕao cứ phải dấn thân ᴠào một cuộc tình không có kết quả?

Tình уêu làm con người ta mù quáng, bước ѕai đường. Mù quáng đủ rồi thì phải đứng lên một cách mạnh mẽ, phải bước ra khỏi bóng râm của ѕự lầm tưởng ᴠề tình уêu ᴠĩ đại. Đừng mãi bấu ᴠíu thứ tình cảm không có kết quả, để chứng minh thực ѕự ngu ngốc, không biết bỏ cuộc. Ta chẳng cần phải cao thượng ᴠới người không хem trọng tấm lòng của mình. Cuộc ѕống nàу không có chuуện “tôi уêu anh thì anh cũng уêu tôi” ᴠừa khéo như ᴠậу được. Đôi khi, ta cứ ngỡ đó là tình уêu nhưng thật ra là không phải. Nếu không là tất cả thì cũng đừng hу ᴠọng mình là gì cả, đừng bận tâm đến những người không đáng làm gì.

Xem thêm: Package Trong Jaᴠa Là Gì

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 2

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 3

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 4

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 5

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 6

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 7

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 8

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 9

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 10

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 11

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 12

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 13

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 14

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 15

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 16

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 17

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 18

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 19

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 20

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 21

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 22

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 23

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 24

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 25

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Page 26

LÀ TẤT CẢ MÀ KHÔNG LÀ GÌ CẢ
Nguyễn Thế Đăng

Bồ-tát ở cấp cao nhất, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, được kinh Pháp hội Pháp giới Thể tánh Vô phân biệt nói như sau:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Này Thiên tử! Nếu có Bồ-tát biết tất cả các sanh mà cũng chẳng sanh, cũng biết tất cả sanh tử của chúng sanh. Ở trong các sanh khéo có thể thuyết pháp giáo hóa chúng sanh. Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ. Các sanh lìa sanh tử thủ, chẳng đi chẳng đến, chẳng lên chẳng xuống, vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy. Cũng biết nhân duyên hòa hợp tăng trưởng. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng. Không có cảnh giới tất cả chúng sanh, trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giới. Vì pháp giới bình đẳng nên hiểu rõ tâm chúng sanh bình đẳng. Khéo biết thời để đến ngồi đạo tràng. Thiên tử! Đây gọi là Bồ-tát nhân sanh vậy”.

Bồ-tát ở trong sanh tử để giáo hóa chúng sanh nhưng đồng thời giải thoát khỏi sanh tửchúng sanh: “Chỗ sanh, không thủ cũng không chẳng thủ; các sanh lìa sanh tử thủ, không đi không đến… vì tất cả pháp đều bình đẳng vậy”. Sống với chúng sanh mà thấy “… không có cảnh giới tất cả chúng sanh…”, “…tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng…”. Sự bình đẳng của tất cả pháp sanh tử và của tất cả chúng sanh là sự bình đẳng của “pháp giới thể tánh vô phân biệt”.

Sanh tử là “tất cả các sanh”, nhưng Bồ-tát thấy “tất cả các sanh [ấy] cũng chẳng sanh” , tất cả các sanh bình đẳng, vô phân biệt trong cái chẳng sanh, trong pháp giới thể tánh chẳng sanh. Tất cả chúng sanh thân khẩu tâm ý đều bình đẳng trong pháp giới thể tánh bình đẳng, do đó gọi là “không có cảnh giới tất cả chúng sanh”, nghĩa là tất cả chúng sanh “cũng chẳng sanh”. Thấy được tất cả các sanh là chẳng sanh, Bồ-tát “trụ Phật cảnh giới, nhập vào pháp giớibình đẳng, vô phân biệt. Trụ Phật cảnh giới là sống trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, “không có pháp nào sanh ra, không có pháp nào diệt mất”.

Nhưng Bồ-tát không chìm đắm trong cái bất sanh, cái vô phân biệt, mà vượt khỏi cái bất sanh, cái vô phân biệt để tự tại với cái sanh, cái phân biệt. Nói cách khác, Bồ-tát sống nơi cái sanh mà chẳng sanh, cái xuất hiện mà chẳng xuất hiện và cũng là nơi chẳng sanh mà sanh, chẳng xuất hiệnxuất hiện: nơi sắc tức là Không và Không mà là sắc. “Thiên tử Bửu Thượng lại hỏi: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi, thế nào gọi là Bồ-tát bất sanh cũng được tự tại ở nơi tất cả? Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu có Bồ-tát nhập các thiền địnhthứ đệ định, đây gọi là bất sanh. Chẳng đam mê thiền lạc, đây gọi là được tự tại ở tất cả. Nếu có Bồ-tát nội tâm tịch tịnh thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng ô nhiễm các cảnh giới ở ngoài thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trái nghịch chỗ an trụ [tánh Không] thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng tùy theo chỗ việc làm thì gọi lả được tự tại. Nếu có Bồ-tát dùng tận trí quán tất cả pháp Không thì gọi là bất sanh. Nếu đủ các thiện căn thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát quán tất cả pháp là tánh Không thì gọi là bất sanh. Nếu chẳng buông bỏ tất cả chúng sanh thì gọi là được tự tại. Nếu có Bồ-tát chẳng trụ ba cõi thì gọi là bất sanh. Vì chúng sanh nên chẳng nhập Niết-bàn thì gọi là được tự tại”.

Bất sanhtánh Không, là giải thoát, là Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vì chúng sanh đang còn ở trong sanh tử nên phải vượt lên khỏi một tánh Không bất động ấy để được tự tại nơi sanh tửtự tại với cả Niết-bàn. Một thành ngữ của Đại thừa là “không lấy không bỏ”, đây là sự tự tại của Bồ-tát được nói ở đây. Tự tại là không lấy không bỏ sanh tử và Niết-bàn.

Bồ-tát không bỏ sanh tử vì nơi ấy có chúng sanh cần được giáo hóa, mà còn vì sanh tử là nơi tu hành Trí huệ ba-la-mật của Bồ-tát, vì “các pháp giới [dơ, sạch] là pháp giới thể tánh”.

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Nếu thấy tất cả kiết sử ma nghiệp đều có thể lợi ích cho đạo vô thượng, đó gọi là Bồtát khéo biết phương tiện. Chẳng cùng đi với tất cả kiết sử, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Lại này Ba-tuần!Nếu Bồ-tát tâm vì trọn vẹn cứu độ các chúng sanh nên dùng đại trang nghiêm mà tự trang nghiêm, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu dùng bốn nhiếp pháp để nhiếp chúng sanh, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu rốt ráo quán tất cả chúng sanh thể tánh tịch diệt, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật.

Lại này Ba-tuần! Nếu thấy ngưới đến xin đều chẳng trái bỏ họ, đó gọi là Bồ-tát rốt ráo tâm hạnh. Nếu có Bồ-tát tập hợp các thiện căn nguyện cầu nhất thiết trí, đó gọi là Bồ-tát khéo biết phương tiện. Nếu Bồ-tát khéo biết thể tánh của các pháp, đó gọi là Bồ-tát hành Bát-nhã ba-la-mật”.

Vào cuối kinh, khi Đế-thích, Phạm vương và các Thiên vương Hộ thế nguyện thủ hộ, cung cấp, phục dịch cho những thiện nam thiện nữ tu hành kinh này, Đức Phật bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi:

“Ông thọ trì kinh này để rộng lưu truyền ở Diêm-phùđề vào thời kỳ mạt thế sau. Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch rằng: Bạch Đức Thế Tôn! Lúc hỏa tai khởi lên, hư không chẳng được thọ trì mà cũng chẳng bị đốt cháy. Bạch Đức Thế Tôn! Như thể tánh hư không, tất cả pháp đây cũng như vậy. Các pháp đây chẳng sanh chẳng diệt. Nếu các pháp không sanh không diệt thì cũng không thọ trì. Vì thể tánh các pháp không thọ trì, đúng như pháp thể tánh, thọ trì các pháp cũng như vậy”.

Thọ trì pháp giới thể tánh vô phân biệt, hay thể tánh các pháp, hay Trí huệ Bát-nhã thấu suốt tánh Không, là không thọ trì. Không thọ trì vì như thể tánh hư không, các pháp không sanh không diệt. Không thọ trì là sự thọ trì rốt ráo, và sự thọ trì rốt ráo này là “an trụ trong giác ngộ [bồ-đề] của chư Phật”.

“Ngài Xá-lợi-phất hỏi: Này Ba-tuần! Luận về bồ-đề [giác ngộ], thể tánh của nó là những gì? Ba-tuần nói: Biết rõ tất cả pháp bình đẳngthể tánh bồ-đề. Biết rõ hai pháp là thể tánh bồ-đề. Nhất thiết trí quán là thể tánh bồ-đề. Chẳng phải không thể tánh, chẳng phải hành chẳng phải chẳng hành, dứt hẳn tất cả các hành và chẳng hành, chẳng phải đạo chẳng phải chẳng đạo, đó gọi là bồ-đề của chư Phật Thế Tôn”.

An trụ trong pháp giới thể tánh vô phân biệt, hòa nhập làm một với nó, như thế trở thành tất cả biểu lộ của nó là sanh tử và Niết-bàn:

“Ba-tuần hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật Như Lai an trụ chỗ nào? Ngài Xá-lợi-phất nói: An trụ nơi bình đẳng trong sanh tử, an trụ nơi Niết-bàn bất động, an trụ nơi tánh như thật của tất cả các kiến chấp, an trụ nơi kiết sử của tất cả chúng sanh, an trụ nơi căn bản của tất cả pháp, an trụ nơi hai pháp hữu vivô vi, các an trụ đều chẳng an trụ vì không có an trụ vậy. Này Ba-tuần! Chư Phật Như Lai an trụ như vậy”.

Tóm lại, các bậc giác ngộ an trụ trong “pháp giới thể tánh” nên là biểu lộ của pháp giới thể tánh tức là “tất cả các pháp giới”. Nói cách khác, bậc giác ngộ là tất cả mà không là một cái gì cả:

“Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi nói: Thưa Đại đức Xá-lợi-phất! Tất cả cỏ cây rừng bụi không có tâm đều có thể làm thân tướng Như Lai và đều có thể thuyết pháp”.

Nguyễn Thế Đăng | Văn Hóa Phật Giáo 307 15-10-2018

Thư Viện Hoa Sen

Video liên quan

Chủ Đề