Làng nghề có vai trò quan trọng như thế nào đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Bắc Giang

Người trẻ không mặn mà với nghề

Bắc Giang hiện có 39 làng nghề đã được UBND tỉnh công nhận. Trong đó, có 14 làng nghề truyền thống như: Mây tre đan, xã Tăng Tiến [Việt Yên], rượu Vân Hà và gốm, bánh đa nem Vân Hà [Việt Yên], bánh đa Kế [TP Bắc Giang], dệt thổ cẩm, xã Lục Sơn [Lục Nam], nuôi tằm, xã Mai Đình [Hiệp Hòa], làm mỳ Chũ, xã Nam Dương [Lục Ngạn],… Đến nay, bên cạnh những làng nghề truyền thống đang phát triển thịnh vượng thì một số làng đã bị mai một hoặc không còn hoạt động.

Công ty TNHH một thành viên mây tre đan Tăng Tiến, xã Tăng Tiến [Việt Yên] khó tuyển lao động làm việc.

Ví như làng nghề dệt thổ cẩm, thôn Vĩnh Linh, xã Lục Sơn [Lục Nam]. Cách đây khoảng 25 năm trở về trước, hầu hết nhà nào trong thôn cũng có máy se chỉ, dệt vải. Khi ấy, nghề dệt thổ cẩm mang lại nguồn thu nhập chính cho người dân nơi đây. Trải qua nhiều năm, hoạt động của làng nghề hiện đã bị mai một. Được biết, thôn Vĩnh Linh hiện có khoảng 60 hộ dân, đa phần là người dân tộc Cao Lan nhưng chỉ có hơn chục hộ theo nghề dệt thổ cẩm. Quy mô sản xuất nhỏ, lẻ nhằm tự phục vụ nhu cầu của bản thân, gia đình và một số ít làm quà lưu niệm bán tại khu du lịch.

Ông Dương Văn Quang, một trong những người có công lưu giữ, phát triển làng nghề dệt thổ cẩm trong thôn chia sẻ, gia đình ông theo nghề dệt thổ cẩm từ mấy đời nay. Con, cháu trong nhà tuy biết nghề nhưng đều đi làm công nhân. Là người Cao Lan, trang phục có đặc điểm riêng; đồng thời muốn gìn giữ bản nét đẹp truyền thống cho nên vào những ngày rảnh rỗi các thành viên trong nhà tự dệt vải, may trang phục hoặc mở lớp truyền dạy nghề cho người có nhu cầu.

Khác với gia đình ông Quang, nhiều thế hệ trẻ ở những gia đình khác trong thôn không biết làm nghề dệt thổ cẩm. Chỉ có một số người già còn giữ nghề, một phần vì nặng lòng với công việc ông cha và do không có việc gì khác để làm. Nguyên nhân được nhiều người chia sẻ đó là phần lớn người dân tộc chỉ sử dụng trang phục vào những ngày lễ hội, giá nguyên liệu tăng trong khi thời gian làm lâu, tốn công sức... nên nghề dệt thổ cẩm không phát triển.

Tương tự, đến làng nghề truyền thống mây tre đan, xã Tăng Tiến [Việt Yên] thời điểm này không còn thấy hình ảnh những bó tăm nhiều màu sắc và các sản phẩm làng nghề phơi dọc hai bên đường làng như trước kia. Thay vào đó là quán hàng dịch vụ, nhà trọ công nhân, nhà máy, khu công nghiệp mọc lên san sát.

Những năm 2003-2008 là thời điểm hoàng kim của làng nghề mây tre đan Tăng Tiến. Khi ấy, từ trẻ nhỏ cho tới người già đều làm nghề để cung cấp sản phẩm đi muôn nơi. Nay vẫn với 4 làng trong xã gồm: Phúc Long, Bảy, Chằm, Chùa nhưng chỉ có khoảng 400 hộ theo nghề với quy mô nhỏ, lẻ. Người dân bỏ nghề truyền thống đi làm trong các khu công nghiệp vì có thu nhập cao hơn. 

Tại Công ty TNHH một thành viên Mây tre đan Tăng Tiến ở thôn Chùa, khu sản xuất có khoảng gần 100 chiếc máy cũ kỹ không có người sử dụng. Trong xưởng, một vài công nhân là người lớn tuổi hoặc chị em phụ nữ bận chăm sóc con nhỏ chưa đi làm công nhân khu công nghiệp đến làm thời vụ kiếm thêm thu nhập. “Mấy năm trở lại đây, đơn vị rất khó khăn về nguồn lao động. Để có đủ hàng phục vụ xuất khẩu, có thời điểm chúng tôi phải thuê nhân công ở các làng nghề tại Hà Nội và Bắc Ninh” - ông Đinh Văn Tỉnh, Giám đốc Công ty chia sẻ.

Duy trì, phát triển làng nghề

Ông Nguyễn Văn Luy, Chi cục trưởng Chi cục Phát triển nông thôn [Sở Nông nghiệp và PTNT] thông tin, thực tế hiện nay các làng nghề, nhất là nghề truyền thống có quy mô nhỏ lẻ; thị trường tiêu thụ chủ yếu là nội địa; chưa được đầu tư quan tâm về kỹ thuật, mẫu mã bao bì sản phẩm nên khả năng cạnh tranh thấp. Để nâng cao vị thế, hội nhập với nền kinh tế thị trường của các làng nghề đang hưng thịnh cũng như duy trì, lưu giữ các làng nghề đã và đang bị mai một, tỉnh Bắc Giang chỉ đạo thực hiện quy hoạch phát triển làng nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.

Để phát triển, duy trì các làng nghề, cùng với chính sách hỗ trợ của Nhà nước, hơn ai hết, chính những người dân làng nghề cần nỗ lực, năng động, nhạy bén trước bối cảnh hội nhập sâu rộng của thị trường để phù hợp với mục tiêu chung là tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động khu vực nông thôn. Đồng thời, duy trì những nét truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc được hình thành và phát triển hàng trăm năm qua.

Cụ thể, thực hiện khôi phục nghề sản xuất gốm tại làng Thổ Hà; duy trì, bảo tồn nghề làm bánh đa, xã Dĩnh Kế, nghề sản xuất bún Đa Mai [TP Bắc Giang], nghề ươm tơ làng Mai Thượng [Hiệp Hòa], nghề thổ cẩm, thôn Vĩnh Linh [Lục Nam]. Đến thời điểm này, các làng nghề đã nhận được sự hỗ trợ về kinh phí đầu tư trang thiết bị máy móc phát triển sản xuất; tập huấn, đào tạo nghề cho người dân, nhất là thế hệ trẻ trong làng.

Bên cạnh đó, một số làng nghề truyền thống sẽ gắn với phát triển du lịch như: Làng nghề mộc [Yên Dũng] gắn với du lịch chùa Vĩnh Nghiêm; làng nghề nấu rượu gạo thôn Yên Viên gắn với du lịch làng cổ Thổ Hà, chùa Bổ Đà [Việt Yên]… Đơn vị cũng triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án "Chương trình mỗi xã một sản phẩm" tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2018-2020, định hướng đến năm 2030. Trong đó, ưu tiên lựa chọn các sản phẩm làng nghề truyền thống để đầu tư phát triển, giới thiệu, trưng bày sản phẩm.

Đối với các làng nghề không còn hoạt động như: Giấy dó, thôn Trại Cao, xã Lục Sơn [Lục Nam]; làng nghề vận tải Nguyệt Đức, xã Vân Hà [Việt Yên]; làng nghề vôi cay xỉ, xã Đông Sơn [Yên Thế], địa phương cần có định hướng chuyển nghề, du nhập nghề mới... đồng thời tổ chức, hỗ trợ đưa các nghệ nhân, thợ giỏi, người có tay nghề cao đi tham quan, học tập để chuyển hướng nghề phù hợp.

Để phát triển, duy trì các làng nghề, cùng với chính sách hỗ trợ của Nhà nước, hơn ai hết, chính những người dân làng nghề cần nỗ lực, năng động, nhạy bén trước bối cảnh hội nhập sâu rộng của thị trường để phù hợp với mục tiêu chung là tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động khu vực nông thôn. Đồng thời, duy trì những nét truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc được hình thành và phát triển hàng trăm năm quan.

Bảo tồn, phát triển làng nghề truyền thống lụa Mã Châu

Huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam không chỉ nổi tiếng là địa phương có nhiều di tích lịch sử góp phần viết lên những trang sử bi hùng với nhiều chiến công hiển hách của dân tộc, nhiều danh lam thắng cảnh đẹp đến nức lòng du khách mà còn nổi danh với những sơn hào hải vị, những sản vật tinh hoa nức tiếng. 

Làng nghề Thủ Dương: Chạy đua vào vụ Tết

[BGĐt] - Những ngày cận Tết, không khí lao động ở làng nghề truyền thống sản xuất mỳ Chũ, thôn Thủ Dương, xã Nam Dương, huyện Lục Ngạn [Bắc Giang] tất bật, nhộn nhịp hơn trước rất nhiều. Tất cả các hộ làm nghề đều tăng công suất gấp đôi, bếp luôn đỏ lửa để kịp có những mẻ mỳ phục vụ thị trường.

Trăn trở hướng đi cho làng nghề

[BGĐT] - Làng nghề truyền thống giữ vai trò quan trọng trong đời sống của cộng đồng dân cư, góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa. Đây cũng là nơi tạo ra nhiều sản phẩm độc đáo, tạo nguồn thu nhập cho người dân. Tuy vậy, trước những thay đổi của thị trường, một số làng nghề tại Bắc Giang đang có nguy cơ mai một. 

Hoàng Phương

NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG:

 TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ BẢO TÀNG

Phạm Lan Hương

Trường Đại học Văn hoá Tp. HCM

Trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, có nhiều bảo tàng trưng bày, giới thiệu về các thủ công truyền thống và làng nghề. Đây là hình thức góp phần bảo tồn một loại hình di sản văn hóa của nhân loại, đồng thời gián tiếp hỗ trợ các làng nghề trong việc quảng bá đến khách du lịch khi tham quan tại bảo tàng. Bài viết này đề cập đến những vấn đề về nghề thủ công truyền thống và làng nghề - một di sản văn hoá phi vật thể qua góc nhìn bảo tàng.

1. Nghề thủ công truyền thống và làng nghề

Nghề thủ công truyền thống là nghề sản xuất hoàn toàn hay một phần bằng chân tay những vật dụng trang trí, tiêu dùng, đòi hỏi các kỹ năng tay chân và kỹ năng nghệ thuật, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, thường áp dụng trong sản xuất hàng hóa quy mô nhỏ. Nghề thủ công thường được chia thành các lĩnh vực: văn hóa tinh thần; sản xuất, chế biến hàng tiêu dùng; chế biến lương thực thực phẩm…

“Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, nghề thủ công hình thành ngay từ trong lòng xã hội nguyên thủy, không đợi đến sự xuất hiện của làng. Tuy nhiên, phải đợi cho đến khi cơ cấu làng Việt ra đời và ổn định thì làng nghề mới trở thành một bộ phận quan trọng cấu thành lịch sử kinh tế văn hóa Việt Nam. Làng nghề là một trong những nét đặc sắc của quá trình phát triển tiền tư bản phương Đông ở Việt Nam”[1].

Làng nghề là một thực thể vật chất và tinh thần được tồn tại cố định về mặt địa lý, ổn định về nghề nghiệp hay một nhóm các nghề có mối liên hệ mật thiết với nhau để làm ra một sản phẩm, có bề dày lịch sử và được tồn tại lưu truyền trong dân gian. Khái niệm về làng nghề theo cách nhìn văn hoá bao gồm  các nội dung cụ thể, như:

- Là một địa danh gắn với một cộng đồng dân cư có một nghề truyền thống lâu đời được lưu truyền và có sức lan toả mạnh mẽ.

- Ổn định về một nghề hay một số nghề có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sản xuất ra một loại sản phẩm.

- Có một đội ngũ nghệ nhân và thợ có tay nghề cao, có bí quyết nghề nghiệp được lưu truyền lại cho con cháu hoặc các thế hệ sau.

- Sản phẩm vừa có ý nghĩa kinh tế để nuôi sống một bộ phận dân cư và quan trọng hơn là nó mang những giá trị vật thể và phi vật thể phản ánh được lịch sử, văn hoá và xã hội liên quan tới chính họ[2].

Một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam cho rằng, nghề và làng nghề thủ công có các giá trị: Giá trị kinh tế, giá trị xã hội và giá trị văn hóa – tinh thần.

Nghề thủ công và làng nghề có giá trị kinh tế, vì đây là “một trong những ngành kinh tế, có hàng hóa, có tham gia thị trường, có lợi nhuận… Nghề thủ công truyền thống còn là lực lượng chủ yếu của thành phần kinh tế hộ gia đình. Nghề và làng nghề thủ công thực sự góp phần vào việc phát triển kinh tế”[3].

Về giá trị xã hội, nghề thủ công có vai trò trong việc ổn định cơ sở xã hội bằng việc tạo việc làm; vai trò trong việc giáo dục tinh thần lao động, ý thức trách nhiệm, quý trọng thời gian, bình đẳng giới [thể hiện qua việc phân công lao động và vai trò của phụ nữ đối với các nghề truyền thống; cũng như phát huy năng lực và tạo việc làm đối với nhiều phụ nữ]…

Giá trị văn hóa - tinh thần là giá trị nổi trội nhất của nghề thủ công và làng nghề. Đây là một thành tố cơ bản, bộ phận hữu cơ của văn hóa dân gian, đời sống dân gian, tạo những dấu ấn và sự phong phú của văn hóa dân tộc. Các nghề thủ công và làng nghề phản ánh bản sắc của từng địa phương, khu vực, là tinh hoa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các sản phẩm thủ công truyền thống không chỉ là hàng hóa thuần túy kinh tế mà còn là mang tính sáng tạo và nghệ thuật, phản ánh phong tục, tập quán, tín ngưỡng của các cộng đồng. Bên cạnh đó, nghề thủ công truyền thống còn là nền tảng truyền thống đạo đức trong các phép tắc, lễ nghĩa và các quan hệ ứng xử. Ngoài ra, các nghề truyền thống và làng nghề còn là bối cảnh của nhiều tác phẩm văn học dân gian.

Từ những giá trị như vậy, nghề thủ công truyền thống và làng nghề được chú trọng nghiên cứu, bảo tồn và phát huy. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay cho thấy, nhiều nghề thủ công truyền thống và các làng nghề đang dần bị mai một, bí quyết nghề nghiệp bị thất truyền. Xu hướng thương mại hóa cũng ảnh hưởng không ít đến các làng nghề. Trong bối cảnh như vậy, Bảo tàng có thể góp phần không nhỏ trong việc giới thiệu, diễn giải và bảo tồn hình thức di sản văn hóa phi vật thể này.

  1. Bảo tàng và các chức năng xã hội

Bảo tàng là một thiết chế văn hóa, mặc dù nội hàm không rộng như khái niệm văn hóa, nhưng có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo tàng. Trên thế giới, mỗi quốc gia đều có những định nghĩa riêng về bảo tàng. Sự thống nhất một định nghĩa chung về bảo tàng đã được Hội đồng Bảo tàng Quốc tế ICOM [The International Council of Museums] xây dựng và liên tục sửa đổi phù hợp bối cảnh và sự phát triển của xã hội.

Định nghĩa của ICOM về Bảo tàng như sau: Bảo tàng là một thiết chế phi lợi nhuận, hoạt động thường xuyên mở cửa cho công chúng đến xem, phục vụ cho xã hội và sự phát triển của xã hội. Bảo tàng sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, thông tin và trưng bày các bằng chứng vật thể và phi vật thể về con người và môi trường sống của con người vì mục đích nghiên cứu, giáo dục và thưởng thức[4].

Luật Di sản Văn hóa: Bảo tàng là thiết chế văn hóa có chức năng sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu di sản văn hóa, bằng chứng vật chất về thiên nhiên, con người, môi trường sống của con người, nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, học tập, tham quan và hưởng thụ văn hóa của công chúng[5].

Theo thời gian, định nghĩa của bảo tàng đã có nhiều thay đổi, gắn với bối cảnh, sự nhận thức cũng như mối liên hệ ngày càng chặt chẽ giữa bảo tàng với xã hội. Theo nhận định của Bảo tàng học Trung Quốc, “định nghĩa về bảo tàng, một mặt phải nắm chắc đặc trưng, bản chất của bảo tàng – một hiện tượng văn hóa xã hội, mặt khác phải thích ứng với yêu cầu mới mà xã hội hiện đại đặt ra đối với bảo tàng. Như vậy, định nghĩa bảo tàng mới có đặc điểm thời đại”[6]. Nói cách khác, bảo tàng ra đời là do nhu cầu của xã hội và bảo tàng ngày càng đổi mới để đáp ứng nhu cầu xã hội.

Nói đến chức năng của Bảo tàng là nói đến ‎ý nghĩa, vai trò của Bảo tàng đối với xã hội. Việc xác định đúng các chức năng xã hội của bảo tàng là cơ sở để quản lý‎, quy hoạch phát triển bảo tàng.

Trong hệ thống lý‎ luận Bảo tàng học trên thế giới, có nhiều quan điểm về chức năng xã hội của bảo tàng.

Theo quan niệm truyền thống, bảo tàng có 2 chức năng cơ bản: nghiên cứu khoa học và giáo dục khoa học. Viện Smith Sonian [Hoa Kỳ] đưa ra 03 chức năng xã hội của bảo tàng: Làm giàu tri thức [Enrich], Giáo dục [Educate] và Vui chơi giải trí [Entertain]. Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên New York [Hoa Kỳ] lại cho rằng các chức năng của bảo tàng là Giáo dục [Education], Tìm tòi [Expedition] và Nghiên cứu [Research]. Theo Hội đồng Bảo tàng Quốc tế, 3 chức năng cơ bản của bảo tàng là Nghiên cứu, Giáo dục và Thưởng thức.

Theo Luật Di sản Văn hóa, Bảo tàng có chức năng sưu tầm, bảo quản, nghiên cứu, trưng bày, giới thiệu di sản văn hóa, bằng chứng vật chất về thiên nhiên, con người, môi trường sống của con người. Và để thực hiện tốt các chức năng này, bảo tàng có các nhiệm vụ:

-  Sưu tầm, kiểm kê, bảo quản và trưng bày các sưu tập hiện vật;

- Nghiên cứu khoa học phục vụ việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa;

- Tổ chức phát huy giá trị di sản văn hóa phục vụ xã hội;

- Xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực của bảo tàng;

- Quản lý‎ cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật;

- Thực hiện hợp tác quốc tế theo quy định của pháp luật;

- Tổ chức hoạt động dịch vụ phục vụ khách tham quan phù hợp với nhiệm vụ của bảo tàng;

- Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật[7].

Chức năng của bảo tàng còn là kết quả hoạt động của bảo tàng đối với xã hội, được thông qua hiệu quả tác động vào xã hội của bảo tàng. Như vậy, với các nhiệm vụ và chức năng của mình, bảo tàng thực sự góp phần nghiên cứu, tư liệu hóa, sưu tầm cứ liệu và hiện vật, giới thiệu và bảo tồn nghề thủ công truyền thống, phần nào tác động đến vai trò của di sản văn hóa phi vật thể này đối với cuộc sống con người.

3. Bảo tàng - không gian đặc biệt đối với các nghề thủ công truyền thống

Nghề thủ công truyền thống là đề tài phổ biến ở các Bảo tàng khảo cứu địa phương và các Bảo tàng thuộc loại hình lịch sử xã hội. Trên thế giới, có thể kể đến một số bảo tàng về nghề thủ công nổi tiếng như: Bảo tàng Nghề thủ công đương đại [Hoa Kỳ], Bảo tàng KMAC [Hoa Kỳ], Bảo tàng Nghệ thuật thủ công Philadelphia [Hoa Kỳ], Bảo tàng và Thư viện Nghề thủ công Manitoba [Canada], Bảo tàng Nghệ thuật và Nghề thủ công Ditchling [Vương quốc Anh], Bảo tàng các nghề thủ công dân gian [Nhật Bản], Bảo tàng Quốc gia Nghệ thuật hiện đại [Nhật Bản], Bảo tàng Dân gian [Hàn Quốc], Bảo tàng Nghề thủ công [Ấn Độ]… Ở Việt Nam, các nghề thủ công truyền thống được giới thiệu trong trưng bày và các chương trình trình diễn ở Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, Bảo tàng Văn hóa các Dân tộc Việt Nam và các Bảo tàng địa phương như: Bảo tàng Bắc Giang, Bảo tàng Kon Tum, Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Cần Thơ, Bảo tàng Sóc Trăng…

Thông qua lăng kính bảo tàng, các câu chuyện về nghề thủ công truyền thống và làng nghề dễ dàng được diễn giải, minh hoạ. Nói cách khác, bảo tàng là nơi giới thiệu các giá trị kinh tế, xã hội, văn hóa – tinh thần của nghề thủ công truyền thống và làng nghề. Đặc biệt, ở góc độ di sản văn hoá phi vật thể, vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản này càng được nhìn nhận rõ rệt qua các hoạt động của Bảo tàng. Đặc điểm quan trọng nhất của di sản văn hóa phi vật thể là tính hỗn nguyên trong quá trình hình thành, tính cộng sinh trong hiện thực và mối quan hệ không thể tách rời với đời sống[8]. Bảo tàng chính là không gian để các nghề thủ công thể hiện rõ 3 đặc điểm quan trọng này.

Thứ nhất, trên cơ sở tư liệu hóa, sưu tầm hiện vật và cứ liệu, Bảo tàng là nơi trưng bày, trình diễn minh họa cho “tính hỗn nguyên” của nghề thủ công. Cùng là nghề dệt, nhưng dân tộc Việt, Thái, Mường sự đa dạng của cùng một nghề thủ công nhưng ở các

Về mặt ngữ nghĩa, từ "hỗn loạn" [chaos] trong ngữ cảnh khoa học mang nghĩa khác với thông thường được sử dụng là trạng thái lộn xộn, thiếu trật tự. Từ hỗn loạn trong thuyết hỗn loạn ám chỉ một hệ thống có vẻ như không có trật tự nào hết nhưng lại tuân theo một quy luật hoặc nguyên tắc nào đó.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Cục Di sản Văn hoá [2007], Bảo vệ Di sản văn hoá phi vật thể, tập 1, Hà Nội
  2. Trịnh Thị Hòa [2007], Khái niệm “bảo tàng” qua một số định nghĩa của Hội đồng Bảo tàng quốc tế, Bảo tàng Di tích – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, trang 61 - 68.
  3. Nguyễn Thị Thu Trang [2013], Bảo tồn và Phát huy di sản văn hóa bằng hình thức bảo tàng hóa di sản văn hóa, Tạp chí Di sản văn hóa, số 4 [45]/2013.
  4. Trường Cao đẳng Văn hóa TP. Hồ Chí Minh, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam [2002], Đổi mới tiếp cận Dân tộc học trong các bảo tàng, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
  5. UNESCO [2010], Các hình thức di sản văn hoá phi vật thể, Paris
  6. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Văn hóa [2012], Tổng tập Nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam, tập 1, NXB Khoa học Xã hội


[1] Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Văn hóa [2012], Tổng tập Nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam, tập 1, NXB Khoa học Xã hội, trang 7.

[2] Lê Thị Minh Lý [2003], Làng nghề và việc bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể, Tạp chí Di sản văn hóa số 4/2003, trang 19.

[3] Trung tâm nghiên cứu đô thị và phát triển [2003], Nghề dệt Chăm truyền thống, NXB Trẻ, TP.HCM, trang 11, 12.

[4] International Council of Museum [2002], ICOM Code of Ethics for Museums, ICOM, trang 4.

[5] Luật Di sản văn hóa năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang 35.

[6] Vương Hoằng Quân chủ biên [2008], Cơ sở bảo tàng học Trung Quốc, Cục Di sản Văn hóa, NXB Thế giới, Hà Nội, trang 72

[7] Luật Di sản văn hóa năm 2001 được sửa đổi, bổ sung năm 2009, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trang 62.

[8] Lưu Khôi Lập, Trương Anh Mẫn [2007], Bảo vệ di sản văn hoá phi vật thể trong những luận điểm trái chiều, trong Bảo vệ Di sản văn hoá phi vật thể, Cục Di sản văn hoá, tập 1, Hà Nội, trang 166.

Video liên quan

Chủ Đề