Khoán 10 khoán 100 là gì

Xem 2,277

Cập nhật thông tin chi tiết về Khoán 10 Và Khoán 100 Trong Nông Nghiệp mới nhất ngày 13/05/2022 trên website Sachkhunglong.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Cho đến thời điểm hiện tại, bài viết này đã đạt được 2,277 lượt xem.

--- Bài mới hơn ---

  • Mẫu Nghị Quyết Đề Nghị Kết Nạp Đảng Viên 2022
  • Mẫu Bài Thu Hoạch Nghị Quyết Trung Ương 10 Khóa 12
  • Nghị Quyết Khác Quyết Định Như Thế Nào
  • Nghị Quyết Của Hội Đồng Thành Viên Trong Công Ty Tnhh 2 Thành Viên
  • Nghị Quyết Liên Tịch Số 09/2008/nqlt
  • Qua tổng kết thực tiễn trên, ngày 13-1-1981, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, thường gọi tắt là khoán 100.

    “Khoán chui”, một mặt, phản ánh sự bắt đầu đổ vỡ khó tránh khỏi của mô hình tập thể hoá triệt để ruộng đất, sức lao động và tư liệu sản xuất khác của nông dân; mặt khác, phản ánh tính tất yếu kinh tế – khôi phục lại chức nǎng kinh tế hộ nông dân. Khoán 100 bước đầu đáp ứng được yêu cầu khách quan này.

    Nội dung cơ bản của khoán 100 thể hiện trên mấy điểm:

    Mục đích: phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, nǎng suất lao động, nâng cao thu nhập của người lao động.

    Nguyên tắc: quản lý và sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất, trước hết là ruộng đất, quản lý và điều hành lao động phải trên cơ sở gắn với kết quả cuối cùng của sản xuất, thực hiện khoán theo 5 khâu và 3 khâu; trong phân phối giải quyết hài hoà mối quan hệ lợi ích người lao động.

    Phạm vi: áp dụng đối với mọi loại cây trồng và vật nuôi.

    Khoán 100 đã đưa lại tác dụng phân chia lại chức nǎng kinh tế giữa tập thể và hộ gia đình cả về quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và phân phối, mở đầu cho quá trình dân chủ hoá về mặt kinh tế, bằng việc gắn bó trở lại lao động với ruộng đất, mang lại lợi ích thiết thực cho nông dân, tạo ra động lực kích thích phát triển sản xuất. Xét về mặt cơ chế quản lý kinh tế, khoán 100 đã phá vỡ cơ chế tập trung quan liêu trong sản xuất nông nghiệp. Trong thời gian đầu, khoán 100 đã có tác dụng làm sống động nền kinh tế nông thôn và tạo ra một khối lượng nông sản lớn hơn so với thời kỳ trước.

    Tuy vậy, khoán 100 cũng chỉ có tác dụng trong một thời gian, sau đó giảm dần vì cơ chế tập trung quan liêu vẫn còn được duy trì trong hợp tác xã, cũng như toàn bộ hệ thống tái sản xuất xã hội trong nông nghiệp. Hệ thống này cùng tính chất mệnh lệnh hành chính, mà hậu quả của nó đè lên vai người nông dân, trước hết là hộ nhận khoán. Hộ nông dân không đủ khả nǎng bảo đảm tái sản xuất và nhu cầu đời sống nên đã phải trả lại bớt ruộng đất.

    Trước đòi hỏi của cuộc sống, nhiều cấp uỷ đảng ở địa phương đã chủ động chuyển sang khoán gọn và sau đó được Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị [tháng 4-1988] xác nhận và thường gọi là khoán 10. Cùng với việc thực hiện khoán 10 là sự đổi mới toàn bộ cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, đổi mới hoạt động kinh tế – xã hội ở nông thôn. Từ đây, chức nǎng kinh tế của hộ nông dân được xác lập trở lại. Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng lần thứ 6 [khoá VI] tháng 3-1989 và Đại hôi đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng khẳng định hộ nông dân là một đơn vị kinh tế tự chủ sản xuất hàng hoá. Đổi mới hình thức và nội dung hoạt động của các hợp tác xã nhằm khai thác có hiệu quả các tiềm nǎng kinh tế hộ nông dân và nông nghiệp, từng bước chuyển nền kinh tế tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

    ” Khoán 100 ” và ” khoán 10 ” ở đây là cách gọi tắt của các nghị quyết số 100 và 10 của nhà nc, ban hành lần lượt vào các năm 1981 và 1988, nói về việc khoán các sản phẩm nông nghiệp cho ng nông dân

    Lúc bấy giờ [ 1979 ], nông dân hầu như bị bắt buộc phải tham gia các hợp tác xã nông nghiệp hoặc các tập đoàn sản xuất của nhà nc. Nếu ko tham gia thì trong hồ sơ sẽ có một câu dạng như ” gia đình ko chấp hành đúng đường lối của Đảng và nhà nc “, và với một nhận xét như thế, thì các quyền lợi của các thành viên trong gia đình ko còn là bao nhiêu nữa. Do đó, nông dân hầu hết đều tham gia vào HTX hay TĐNG, nhưng ko năng suất, hiệu quả, đến giờ làm thì đi, hết giờ làm thì về Trong hoàn cảnh đó, sự ra đời của nghị quyết 100 đã phản ánh đc sự đổ vỡ ko thể tránh khỏi của mô hình tập thể hoá nông nghiệp, sức lao động, tư liệu lao động của ng dân.

    Trong thời gian đầu, khoán 100 đã làm đổi mới bộ mặt nông thôn và tạo ra đc lượng nông sản lớn hơn ở thời kỳ trc. Tuy nhiên cũng chỉ đc một thời gian, sau đó nó bộc lộ một số vấn đề chưa giải quyết đc [ hệ thống quan liêu trong các HTX, tính mệnh lệnh hành chính về khoán, đè lên vai ng nhận khoán v.v. ]. Đây là hoàn cảnh ra đời của khoán 10, kèm theo đó là đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp, từ đây chức năng kinh tế hộ gia đình dc xác lập trở lại

    Sưu tầm bởi www.NguyenDucHanh.net

    --- Bài cũ hơn ---

  • Từ Khoán 10 Đến Nghị Quyết 10
  • Nghị Quyết Khoán 10 Năm 1988
  • Thông Qua Nghị Quyết Kỳ Họp Thứ 9, Quốc Hội Khóa Xiv
  • Công Bố 8 Nghị Quyết Được Quốc Hội Thông Qua Tại Kỳ Họp Thứ 9 Quốc Hội Khóa Xiv
  • Quốc Hội Biểu Quyết Thông Qua Nghị Quyết Kỳ Họp Thứ 9, Quốc Hội Khóa Xiv
  • Bạn đang xem bài viết Khoán 10 Và Khoán 100 Trong Nông Nghiệp trên website Sachkhunglong.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!

    Nghị quyết 10-NQ/TW năm 1988 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp

    [ĐCSVN] - Nghị quyết số 10-NQ/TW [hay còn gọi là Khoán 10] của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp là “cú hích” mạnh mẽ cho sản xuất nông nghiệp.

    Ngày 5/4/1988, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã ký ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Theo Nghị quyết, hộ gia đình được thừa nhận là đơn vị kinh tế tự chủ, nông dân được trao quyền sử dụng đất và mức khoán lâu dài.

    Nghị quyết gồm 3 phần: phần I- Tình hình tổ chức sản xuất và quản lý nông nghiệp hiện nay; phần II- Đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp [Sắp xếp và tổ chức lại sản xuất nông nghiệp; Củng cố và mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế; Một số vấn đề quản lý nhà nước trong nông nghiệp; Một số vấn đề về xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa; Tăng cường tổ chức cơ sở Đảng và vai trò của các đoàn thể quần chúng và phần III- Tổ chức thực hiện].

    Nhờ đó, từ một nước thiếu lương thực triền miên, đến năm 1989 [chỉ sau 1 năm thực hiện Khoán 10] sản lượng lúa gạo của cả nước đã đạt 21,5 triệu tấn và lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu được 1,2 triệu tấn lúa gạo. Khoán 10 cũng là tiền đề để quy định về giao ruộng đất ổn định, lâu dài cho nông dân được cụ thể hóa tại Luật Đất đai năm 1993.


    "Khoán 100" tạo ra bước ngoặt trong cơ chế quản lý sản xuất nông nghiệp những năm 80 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, ít ai biết, hơn 10 năm trước đó, tại Vĩnh Phúc, đã có người "đứng mũi chịu sào" thử nghiệm cách làm ăn mới mang lại hiệu quả cao cho sản xuất, đó là Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc. Thực tế đã chứng minh ông là người đi tiên phong trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam và ông xứng đáng là "tượng đài" trong sản xuất nông nghiệp của Việt Nam

    Cách đây 40 năm, ngày 13/01/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 100-CT/TW về khoán sản phẩm cây lúa đến nhóm và người lao động, cho phép áp dụng chế độ khoán trong nông nghiệp Việt Nam. 7 năm sau, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 10-NQ/TW ngày 05/04/1988 về thực hiện chế độ khoán trong nông nghiệp; thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn. Ngày nay, chúng ta thường nhắc đến “Khoán 100”, “Khoán 10” như những mốc son đổi mới quan trọng của Đảng về cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam. 40 năm qua, từ một nước đói nghèo sau chiến tranh, lại thêm khủng hoảng bởi những hạn chế, sai lầm trong tư duy quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp, nhờ đổi mới, Việt Nam đã trở thành cường quốc xuất khẩu gạo, an ninh lương thực được giữ vững… Không chỉ mang lại thành tựu trong nông nghiệp, “Khoán 100”, “Khoán 10” còn là cơ sở, là “nguồn cảm hứng” để Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trên tất cả các lĩnh vực, góp phần tạo nên những thành tựu trong công nghiệp, thương mại, dịch vụ… như ngày nay.

    Kỷ niệm 40 năm ngày “Khoán 100” ra đời, chúng ta tưởng nhớ về người mở đường cho sự nghiệp khoán hộ trong nông nghiệp– Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc Kim Ngọc, người được dân gian gọi với tên trìu mến là “ông khoán hộ”.

    Kim Ngọc tên thật là Kim Văn Nguộc, sinh năm 1917 tại xã Bình Định, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 22 tuổi, ông tham gia cách mạng, 23 tuổi vào Đảng. Năm 1952, lúc mới 35 tuổi, Kim Ngọc đã trở thành Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc. Sau đó, ông lên chiến khu Việt Bắc, làm Khu ủy viên Khu ủy Việt Bắc, Phó Bí thư Chính ủy quân khu Việt Bắc. Đến năm 1959, ông được điều trở lại quê nhà, làm Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc lần thứ hai. Sau khi Vĩnh Phúc và Phú Thọ sáp nhập thành tỉnh Vĩnh Phú [năm 1968], ông tiếp tục làm Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phú cho đến năm 1978 thì nghỉ hưu. Năm 2009, ông được truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh – tấm huân chương cao quý nhất của Đảng và Nhà nước, ghi nhận đóng góp vô cùng quan trọng của người mở đường cho sự nghiệp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam.

    Đưa những giống lúa mới vào đồng ruộng Vĩnh Phúc, mang đến những mùa vàng bội thu

    [Ảnh Cổng thông tin - giao tiếp điện tử tỉnh Vĩnh Phúc]

    Trở về bối cảnh sau năm 1954, miền Bắc bước vào giai đoạn hoàn thành cách mạng ruộng đất, triển khai cải tạo XHCN đối với nông nghiệp nhằm khôi phục và phát triển kinh tế, mà khâu then chốt là phong trào hợp tác hóa nông nghiệp. Ban đầu, với ý nghĩa ruộng đất là của toàn dân, của tập thể, người nông dân tập hợp trong một tổ chức [hợp tác xã], làm chung, hưởng chung thành quả lao động… nên nông dân rất phấn khởi, phong trào hợp tác hóa thu được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, đến đầu thập niên 60, nhiều vấn đề bất hợp lý bắt đầu lộ diện ngay trong chính những địa phương hợp tác hóa mạnh mẽ. Phương thức quản lý lao động ở tất cả các hợp tác xã rơi vào bế tắc khi trình độ quản lý của người quản lý [ban chủ nhiệm hợp tác xã] không đáp ứng yêu cầu. Tình trạng thiếu trách nhiệm, “cha chung không ai khóc” trong quản lý, bảo vệ tài sản, công cụ sản xuất khiến một phần đất đai bị bỏ hoang, sức kéo [trâu bò] giảm sút, công cụ [cày cuốc] chóng hư hỏng. Việc “dong công, phóng điểm” khiến thu nhập của người trực tiếp sản xuất bị ăn bớt bởi các nhà quản lý. Tình trạng “lãn công”, đi muộn, về sớm, lười biếng, ỉ lại… dần thành bệnh của những người nông dân vốn “hai sương, một nắng”.

    Xuất thân từ gia đình nông dân, trải qua chỉ đạo phong trào, chứng kiến những vướng mắc, hạn chế, khuyết tật của mô hình hợp tác hóa đại trà kém hiệu quả ở địa phương, hơn ai hết, Bí thư Kim Ngọc thấy rõ trách nhiệm của bản thân và tập thể Ban Thường vụ Tỉnh ủy trong tháo gỡ cơ chế quản lý kinh tế này. Quan sát, nghiên cứu tình hình sản xuất nông nghiệp, những câu hỏi liên tiếp được đặt ra: nếu mô hình hợp tác hóa nông nghiệp là ưu điểm, tại sao sản lượng lương thực ngày càng thấp? Trong cơ cấu sản xuất, tại sao ruộng 5% của hộ gia đình thì năng suất cao hơn hẳn so với ruộng hợp tác? Nếu khoán ruộng, khoán chăn nuôi cho hộ gia đình thì có chắc chắn năng suất tăng không? V.v… Câu trả lời dần hiện rõ khi dưới sự chủ trì của Bí thư Kim Ngọc, các ý kiến của phần đông cán bộ chủ chốt các địa phương, ngành trong tỉnh được tập hợp, thảo luận và thống nhất tại Nghị quyết số 68-NQ/TU ngày 10/9/1966 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về một số vấn đề quản lý lao động nông nghiệp trong hợp tác xã. Trong đó xác định: kiên quyết làm bằng được, đúng và tốt chế độ ba khoán: khoán việc cho nhóm, cho lao động và cho hộ, bảo đảm sử sụng hợp lý sức lao động và tăng năng suất lao động.

    Thực hiện Nghị quyết số 68, chỉ sau một hai vụ khoán, năng suất lúa của 70% hợp tác xã trên địa bàn tỉnh đạt từ 5 đến7 tấn/ha, bộ mặt nông thôn có sự khởi sắc. Tiếng lành về hiệu quả “khoán” của Vĩnh Phúc đồn xa, nhiều địa phương miền Bắc đến học tập, song cũng vấp phải những băn khoăn từ nhiều phía. Đặc biệt, khi đối chiếu với chủ trương cải tạo XHCN đối với nông nghiệp của Đảng trong thời điểm hiện tại, thì “khoán hộ” ở Vĩnh Phúc là “có vấn đề”. Có ý kiến cho rằng nó sẽ “phá vỡ phong trào hợp tác hóa”, là “phục hồi chủ nghĩa tư bản ở nông thôn”… Khi chưa có sự đánh giá cuối cùng về hiệu quả của mô hình khoán, chấp hành sự chỉ đạo của cấp trên, Kim Ngọc cùng tập thể Ban Thường vụ Tỉnh ủy “sửa sai” bằng việc tự phê bình và dừng chủ trương “khoán hộ” lại. Tuy nhiên, trước tình trạng năng suất lao động áp dụng theo cơ chế cũ lại giảm sút, mong muốn tiếp tục tìm hướng đi cho đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, Bí thư Kim Ngọc và Ban Thường vụ âm thầm cho tiến hành “khoán chui”. Đã làm “chui” thì nghĩa là vi phạm kỷ luật, song, nhờ áp dụng các biện pháp khoán “ngấm ngầm”, “trá hình”, nhất là đối với cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày, mà nông nghiệp Vĩnh Phúc tiếp tục có những thành quả. Và trên thực tế, nhiều địa phương đã “lẳng lặng” tìm đến Vĩnh Phúc để tìm hiểu mô hình khoán, thời đó gọi là “học tập chui”, điển hình nhất là Hải Phòng.

    Tháng 10/1977, Đảng ủy xã Đoàn Xá [An Thụy, Hải Phòng] ra “nghị quyết miệng” về khoán sản phẩm. Khi các hợp tác xã khác ngày càng sa vào thất bát vì cơ chế quản lý cũ, thì vụ mùa đầu tiên sau “khoán”, năng suất tại Đoàn Xá đạt gấp 6 lần mức bình thường. Thành ủy Hải Phòng tập trung nghiên cứu, cử cán bộ về một số huyện để xây “mẫu điển hình” về khoán. Tháng 5/1978, Huyện ủy Đồ Sơn ra Nghị quyết 05-NQ/HU, cho phép triển khai khoán sản phẩm trên 50% diện tích đất nông nghiệp toàn huyện. Thực tế trước đó, 100% hợp tác xã ở Đồ Sơn đã “lén” thực hiện khoán rồi… Năm 1981, với sự “thuyết phục” bởi thực tiễn khoán mang lại thành quả trong nông nghiệp, Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban Bí thư ra đời, chính thức ghi dấu mốc đầu tiên về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp của Đảng.

    Sau này nhìn lại, chúng ta đều thấy rằng, để có một sự đổi mới tư duy lý luận làm cơ sở cho đổi mới chủ trương, chính sách đối với các lĩnh vực quan trong của đời sống xã hội, những người đảng viên cộng sản phải đấu tranh không ngừng. Đó là cuộc đấu tranh với những suy nghĩ giáo điều, cứng nhắc trong nội bộ Đảng; là cuộc đấu tranh trong chính bản thân người cán bộ, đảng viên, chấp nhận rủi ro, hy sinh để có những thay đổi mang lại lợi ích cho nhân dân, dân tộc. Trong cuộc đấu tranh đó, lợi ích của nhân dân, thắng lợi của sự nghiệp cách mạng là mục tiêu cao cả nhất của người đảng viên cộng sản.

    Bạch Yến

    Video liên quan

    Chủ Đề