Khổ thơ nghĩa là gì

Dưới đây là những mẫu câu có chứa từ "khổ thơ", trong bộ từ điển Từ điển Tiếng Việt. Chúng ta có thể tham khảo những mẫu câu này để đặt câu trong tình huống cần đặt câu với từ khổ thơ, hoặc tham khảo ngữ cảnh sử dụng từ khổ thơ trong bộ từ điển Từ điển Tiếng Việt

1. Một phiên bản sửa đổi sơ qua xuất hiện vào năm 1808, thay đổi hai dòng của khổ thơ đầu và bỏ đi phần khổ thơ cuối.

2. Bài có 22 khổ thơ, mỗi khổ gồm 8 câu.

3. Và bài thơ kết thúc với việc lặp lại khổ thơ đầu...

4. Lời chính thức từ năm 2003 Khổ thơ đầu trong bài thơ gốc của Chubynsky tương tự như khổ thơ đầu của quốc ca các nước Ba Lan, Nam Tư, và Israel.

5. Odin nhắc đến vùng đất thứ sáu là Thrymheimr trong một khổ thơ.

6. Người bạn khốn khổ, anh muốn nghe một khổ thơ đặc biệt nào không?

7. Bài thơ ngắn sau đây của Emily Dickinson có hai khổ thơ, mỗi khổ bốn dòng.

8. Được sắp xếp thành 11 khổ thơ, những câu này quả chứa đựng rất nhiều điều hữu ích!

9. Một nhóm các dòng riêng biệt được đánh số trong verse thường được gọi là một khổ thơ [stanza].

10. Nguồn gốc của những khổ thơ đó không được xác nhận trong văn xuôi Edda hay bất cứ đâu.

11. Một là madrigal, không giống madrigal của 150-250 năm trước, mà có hình thức giống khổ thơ/điệp khúc.

12. Mỗi câu trong một khổ thơ đều bắt đầu với cùng một chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Hê-bơ-rơ.

13. Lời bài hát giống một bài thơ theo kết cấu cổ điển được tạo thành từ hai khổ thơ và một đoạn lặp.

14. Ballad La Belle Dame Sans Merci chỉ gồm 12 khổ thơ, mỗi khổ 4 dòng nhưng là một câu chuyện đầy những bí ẩn.

15. Trong khổ thơ đó, Odin nói rằng tên khổng lồ Thjazi đã từng sống ở đó, và giờ đến con gái Skadi của ông ta.

16. Mặc dù phần lời của bài hát có 8 khổ thơ nhưng thông thường người ta chỉ hát khổ đầu tiên và hai khổ cuối.

17. Tác phẩm bao gồm 2.774 khổ thơ theo phong cách manipravala, một hỗn hợp của tiếng Phạn và ngôn ngữ văn xuôi tiếng Java cổ xưa.

18. Vua Thommaracha II [1629-1634] đã viết một bài thơ thu hút thế hệ bạn đọc trẻ Khơ me, những người mà cho đến giờ vẫn rất thích các khổ thơ truyền thống.

19. Tuy nhiên, verse còn đại diện cho việc chia tách hoặc nhóm các từ trong một bài thơ, trong đó việc nhóm lại theo truyền thống được biết đến với thuật ngữ khổ thơ [stanza].

20. Loki đáp rằng Skadi ăn nói thân thiện hơn khi cô ở trên giường - một câu nói hắn dùng với hầu hết các nữ thần trong khổ thơ và không được chứng thực tại bất cứ đâu khác.

21. Điều này kết thúc, trong tông màu trang trọng kéo dài, giống như thu phí liên tục của một chuông trong một con tàu là chìm ở biển trong sương mù trong những tông màu như vậy, ông bắt đầu đọc sau bài thánh ca, nhưng thay đổi cách thức của ông hướng tới kết luận khổ thơ, bật ra với một sự mừng vui và niềm vui pealing

22. Bài thơ nói rằng thơ ca có thể làm người ta đến với nhau, tôi nghĩ điều đó là thật, bài thơ cứ ở mãi trong tâm trí tôi không phải chỉ vì vần điệu của nó mà là vì nghệ thuật tạo ra nó, đơn giản và rõ ràng ở câu 2 và câu 4, khổ thơ cuối từ "nói" và từ "đường" với một gợi ý trước ở câu một và ba, "trả lời" và "hướng," như thể cả bài thơ tự nó hòa quyện lẫn nhau.

1. Một phiên bản sửa đổi sơ qua xuất hiện vào năm 1808, thay đổi hai dòng của khổ thơ đầu và bỏ đi phần khổ thơ cuối.

A slightly revised version appeared in 1808, changing two lines of the first and omitting the last stanza.

2. Bài có 22 khổ thơ, mỗi khổ gồm 8 câu.

The psalm has 22 stanzas, each containing 8 verses.

3. Lời chính thức từ năm 2003 Khổ thơ đầu trong bài thơ gốc của Chubynsky tương tự như khổ thơ đầu của quốc ca các nước Ba Lan, Nam Tư, và Israel.

Official version of lyrics used since 2003 The first stanza of Chubynsky's original poem is somewhat similar to the first stanza of national anthems of Poland, Yugoslavia, and Israel.

4. Odin nhắc đến vùng đất thứ sáu là Thrymheimr trong một khổ thơ.

Odin mentions the location Þrymheimr sixth in a single stanza.

5. Người bạn khốn khổ, anh muốn nghe một khổ thơ đặc biệt nào không?

My poor fellow, are there any particular verses you'd like to hear?

6. Bài thơ ngắn sau đây của Emily Dickinson có hai khổ thơ, mỗi khổ bốn dòng.

This short poem by Emily Dickinson has two stanzas of four lines each.

7. Được sắp xếp thành 11 khổ thơ, những câu này quả chứa đựng rất nhiều điều hữu ích!

What a wealth of information is contained in these verses, arranged in 11 stanzas!

8. Một nhóm các dòng riêng biệt được đánh số trong verse thường được gọi là một khổ thơ [stanza].

A distinct numbered group of lines in verse is normally called a stanza.

9. Nguồn gốc của những khổ thơ đó không được xác nhận trong văn xuôi Edda hay bất cứ đâu.

The sources for these stanzas are not provided in the Prose Edda or elsewhere.

10. Một là madrigal, không giống madrigal của 150-250 năm trước, mà có hình thức giống khổ thơ/điệp khúc.

One was the madrigal, not the same as that of 150–250 years later, but with a verse/refrain-like form.

11. Mỗi câu trong một khổ thơ đều bắt đầu với cùng một chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Hê-bơ-rơ.

Each verse in a stanza begins with the same letter of the Hebrew alphabet.

12. Lời bài hát giống một bài thơ theo kết cấu cổ điển được tạo thành từ hai khổ thơ và một đoạn lặp.

The song is arranged as a semi-classical minuet, built on two acoustic guitars and a double bass.

13. Trong khổ thơ đó, Odin nói rằng tên khổng lồ Thjazi đã từng sống ở đó, và giờ đến con gái Skadi của ông ta.

In the stanza, Odin details that the jötunn Þjazi once lived there, and that now his daughter Skaði does.

14. Vua Thommaracha II [1629-1634] đã viết một bài thơ thu hút thế hệ bạn đọc trẻ Khơ me, những người mà cho đến giờ vẫn rất thích các khổ thơ truyền thống.

King Thommaracha II [1629–1634] wrote a poem directed to the Khmer young generation which is still a well loved traditional piece of poetry.

15. Tuy nhiên, verse còn đại diện cho việc chia tách hoặc nhóm các từ trong một bài thơ, trong đó việc nhóm lại theo truyền thống được biết đến với thuật ngữ khổ thơ [stanza].

However, verse has come to represent any division or grouping of words in a poetic composition, with groupings traditionally having been referred to as stanzas.

16. Loki đáp rằng Skadi ăn nói thân thiện hơn khi cô ở trên giường - một câu nói hắn dùng với hầu hết các nữ thần trong khổ thơ và không được chứng thực tại bất cứ đâu khác.

Loki responds that Skaði was more friendly in speech when Skaði was in his bed—an accusation he makes to most of the goddesses in the poem and is not attested elsewhere.

Khổ thơ [tiếng Anh : stanza] là sự kết hợp của các câu thơ thành từng nhóm, thống nhất với nhau về vần, nhịp, cú pháp, ngữ điệu. Mỗi khổ thơ được kết thúc bằng một khoảng nghỉ dài. Trong bản in giữa các khổ thơ đánh dấu bằng một khoảng cách lớn hơn khoảng cách giữa hai dòng chữ.

Yếu tố quan trọng nhất trong khổ thơ là sự thống nhất giữa các câu thơ về vần. Trong khổ thơ thường có một vần. Nếu thay đổi vần, bài thơ sẽ chuyển sang khổ khác.

Nhịp cũng được thống nhất trong khổ thơ chứa đựng một cách ngắt nhịp. Chính vì thế giữa các khổ thơ có thể có sự thay đổi về nhịp.

Khổ thơ bao giờ cũng trọn vẹn về cú pháp. Câu thơ có thể bỏ lửng để rồi được nối tiếp bằng những câu sau, song không thể có sự “bắc cầu” giữa các khổ thơ.

Về ngữ điệu, có sự thay đổi trong toàn bộ khổ thơ từ câu đầu đến câu cuối, song phải thể hiện được dấu hiệu kết thúc khổ thơ. Trong đa số trường hợp, kết thúc khổ thơ là sự “hạ giọng”.

Các khổ thơ có số lượng câu thơ khác nhau. Khổ ít nhất cũng có hai câu thơ.

Khó có thể tìm được giới hạn tối đa về số lượng câu thơ trong một khổ thơ. Tác phẩm Ép-ghê-nhi Ô-nhê-ghin của Pu-skin có khổ thơ gồm tới mười bốn câu. Ở nước ta thơ ca cổ điển hầu như không chia khổ. Có ý kiến cho rằng trong ngâm khúc, mỗi bốn câu song thất lục bát tự tạo thành một khổ. Song giữa các khổ không có khoảng cách. Từ thời cận đại, với thơ của Tản Đà người ta mới thấy có sự chia khổ, như Hầu Trời, Thăm mả cũ bên đường,… Trong thơ Việt Nam khổ thơ bốn câu là hiện tượng khá phổ biến. Ngoài ra cũng có khổ thơ sáu câu, hoặc số câu không đều nhau.

Khổ thơ thường biểu hiện một ý chưa hoàn chỉnh, nó nằm trong hệ thống cấu tứ của toàn bài. Khi khổ thơ biểu thị một ý hoàn chỉnh thì trùng với đoạn thơ.

* Bài viết này được sửa đổi lần cuối vào lúc 2:02 Sáng ngày 16/04/2017

Từ nét chữ Latinh [từ đó, xuất phát từ một từ Hy Lạp có nghĩa là "trở lại" ], thuật ngữ Strophe cho phép tham chiếu đến các đoạn khác nhau tạo nên một bài thơ hoặc một bài hát. Thông thường những phần này được tổ chức theo cùng một cách và được hình thành bởi một số câu thơ giống hệt nhau.

Đối với các số liệu, một khổ thơ là một tập hợp các câu thơ được nối bởi các tham số về nhịp điệu, độ dài và vần điệu. Các khổ thơ có thể được phân loại theo số lượng câu thơ họ trình bày.

Các khổ thơ trình bày hai câu thơ được gọi là một câu ghép, dictum Elegiac hoặc niềm vui, theo thành phần cụ thể của họ.

Các khổ thơ với ba câu thơ có thể được gọi là duy nhất, terceto hoặc tercerilla . Mặt khác, bốn khổ thơ có thể thuộc về trình độ của tứ tấu, quatrain, couplet, redondilla, serventesio, seguidilla hoặc notebook qua .

Quintilla, ánh đèn đôi, quintilla endecasílaba, quintet, lyre [câu thơ của năm câu thơ], thứ sáu, sextilla [khổ thơ của sáu câu thơ], seguidilla sáng tác [khổ thơ bảy câu thơ] khổ thơ mười câu thơ] và bản sonnet [khổ thơ mười bốn câu] là những thể thơ khác.

Những dữ liệu này rất quan trọng bởi vì, biết cấu trúc của khổ thơ, có thể viết thơ và xử lý với độ chính xác các khái niệm về vần điệu và nhịp điệu.

Trong số tất cả các loại khổ thơ được đề cập, điều rất quan trọng là chúng tôi đặc biệt đề cập đến một loại có được nhiều điểm nổi bật trong phạm vi sáng tạo nghệ thuật. Đây sẽ là trường hợp đã nói ở trên và được gọi là quãng tám thực sự. Nó được định nghĩa là một khổ thơ của vần phụ âm được hình thành bởi tám câu thơ hendecasyllabic.

Cụ thể, chúng ta có thể xác định rằng, có nguồn gốc từ Ý, có ba vần phụ âm và sáu câu thơ đầu tiên vần xen kẽ trong khi hai câu cuối phát ra một từ ghép. Các nhà thơ Tây Ban Nha Jose de Espronceda hoặc Garcilaso de la Vega là hai trong số các tác giả đã sử dụng nhiều nhất quãng tám thực sự.

Trong lĩnh vực văn học, ngoài tất cả những điều trên, chúng ta cũng có thể thông báo rằng thuật ngữ khổ thơ đã được người Hy Lạp sử dụng trong thời cổ đại. Cụ thể, họ đã sử dụng khái niệm này để chỉ phần đầu của một bài thơ hoặc lời bài hát. Chính xác hơn những thứ này có thể được định hình theo hai cách: stanza và antistrofa, hoặc stanza, antistrofa và epodo. Một phân chia này cuối cùng mà gần đây cũng đã được sử dụng trong những gì thơ Tây Ban Nha đã được.

Cuối cùng, cần lưu ý rằng nó được gọi là câu thơ cho các phần tạo nên lời của một bài hát . Tất nhiên, ý nghĩa là giống nhau đề cập đến bố cục của một bài thơ. Một cấu trúc khá thông thường của một bài hát là stanza-stanza-chorus-stanza-stanza-refrain .

Trong lĩnh vực này, chúng ta phải nhấn mạnh rằng cách tốt nhất để xác định một câu thơ giống như phần đó hoặc phần của một bài hát cụ thể được lặp lại nhiều lần cùng với cùng một giai điệu nhưng với lời bài hát khác nhau.

Video liên quan

Chủ Đề