Hướng dẫn lập kế hoạch giáo dục trẻ các độ tuổi

Ban giám hiệm nhà trường chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch năm học dựa trên các căn cứ sau :

– Mục tiêu và nội dung chương trình giáo dục mẫu giáo đã quy định trong. Chương trình giáo dục mầm non do Bộ Giáo Dục và Đào tạo ban hành.

– Thời gian quy định trong năm học.

– Điều kiện cơ sở vật chất và các nguồn lực khác của địa phương và trường mầm non.

– Nhu cầu và trình độ phát triển thực tế của trẻ trong lớp mẫu giáo.

II – CÁCH THỨC XÂY DỰNG KẾ HOẠCH GIÁO DỤC

– Những nội dung quy định trong 5 lĩnh vực giáo dục của chương trình được tổ chức thành các chủ đề chính. Khi thực hiện, từ chủ đề chính giáo viên có thể phát triển, mở rộng thành các chủ đề nhánh, hình thành mạng lưới liên kết các nội dung và các hoạt động giáo dục lại với nhau.

– Trong quá trình xây dựng và thực hiện chủ đề, giáo viên cần lưu ý đảm bảo các yêu cầu sau đây :

  + Cần tính đến nhu cầu, hứng thú của trẻ và những kiến thức bắt nguồn từ thực tế cuộc sống gần gũi với trẻ ;

  + Cần được thể hiện trong các hoạt động ở trường ;

  + Cần được thể hiện ở sự lựa chọn và cung cấp các đồ dùng học liệu ở các khu vực chơi trong lớp ;

  + Cần được tiến hành tối thiểu trong 1 tuần, đảm bảo có sự lặp lại và mở rộng các cơ hội học cho trẻ các độ tuổi khác nhau [mẫu giáo bé, nhỡ, lớn].

– Trước tiên, Ban giám hiệu nhà trường xây dựng kế hoạch chung cho cả năm học [dự kiến các chủ đề, phân phối quỹ thời gian cho từng chủ đề và cho từng khối lớp] và phổ biến hướng dẫn tổ chức thực hiện cho giáo viên trong trường. Giáo viên sẽ dựa vào kế hoạch chung này để xây dựng kế hoạch cụ thể hằng tháng và hằng tuần cho lớp mình : xác định tên chủ đề cho tháng ; mục tiêu cần đạt trên trẻ phù hợp với chủ đề ; xác định kiến thức, kĩ năng và thái độ cung cấp cho trẻ thông qua chủ đề sẽ học ; lựa chọn các hoạt động ; sắp xếp lịch tuần ; chuẩn bị đồ dùng dạy học và tiến hành tổ chức các hoạt động giáo dục hằng ngày theo kế hoạch đã định.

Gợi ý các chủ đề trong năm học

Tháng Chủ đề Số tuần
9 Trường Mầm non ; Tết Trung thu 2 – 3 tuần
9 – 10 4 – 5 tuần
10 – 11 4 – 5 tuần
12 – 1 4 – 5 tuần
1 – 2 4 – 5 tuần
2 4 – 5 tuần
3 4 tuần
4 2 tuần
5 1 – 2 tuần
5 1 – 2 tuần

– Ban giám hiệu có thể lựa chọn, thay đổi tên các chủ đề cho phù hợp với khối lớp mẫu giáo lớn của trường và địa phương.

– Số chủ đề, số tuần dự kiến cho từng chủ đề có thể thay đổi linh hoạt tùy theo hứng thú, nhu cầu, khả năng của trẻ và điều kiện triển khai của từng lớp cụ thể. Ví dụ như chủ đề ngày lễ hội có thể thực hiện trong khoảng 3 – 5 ngày.

– Giáo viên tiếp tục thực hiện các bước phát triển chủ đề nhánh : chọn chủ đề cụ thể, xác định mục tiêu giáo dục của chủ đề, xây dựng mạng nội dung, xây dựng mạng hoạt động của chủ đề và lên kế hoạch cụ thể hằng tuần cho phù hợp với trẻ và điều kiện thực tế của lớp. Việc xác định rõ mục tiêu, nội dung và các hoạt động giáo dục sẽ giúp giáo viên chủ động hơn khi triển khai chủ đề.

B – CÁCH THỨC XÂY DỰNG VÀ LẬP KẾ HOẠCH CHỦ ĐỀ

I – XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CHỦ ĐỀ

Giáo viên của từng lớp chịu trách nhiệm xây dựng chủ đề và phát triển các chủ đề, sau đó thông qua Ban giám hiệu.

Ngay khi chủ đề đã được, giáo viên cần xác định các mục tiêu giáo dục của chủ đề hoặc nói cách khác là những kết quả mong muốn mà trẻ có thể đạt được sau khi học chủ đề đó. Muc tiêu của chủ đề đưa ra cần bám sát mục tiêu của từng lĩnh vực giáo dục trong Chương trình, các tiêu chí cần cụ thể, có thể đo đạc được mong muốn trẻ đạt được bao giờ cũng bắt đầu từng bước đạt được mục tiêu giáo dục mầm non ở cuối mẫu giáo, chuẩn bị vào lớp Một.

Lưu ý : Khi viết mục tiêu hoặc mục đích mong muốn trẻ đạt được bao giờ cũng bắt đầu  bằng các động từ như : có thể, có khả năng, biết, nhận biết, yêu thích.

Ví dụ : Xác định mục tiêu cho chủ đề “Thế giới động vật”

Ngay từ nhỏ, trẻ đã có tính tò mò, ham muốn tìm hiểu, khám phá thế giới tự nhiên xung quanh. Đặc biệt, thế giới các con vật và những trò chơi hoặc hoạt động khám phá chúng dưới sự hướng dẫn của các nhà giáo dục luôn hấp dẫn và lôi cuốn trẻ. Chủ đề “Thế giới động vật ” có thể đưa vào kế hoạch giáo dục ngay từ nhà trẻ và tiếp tục ở các lớp mẫu giáo với mức độ khác nhau, từ đơn giản đến phức tạp.

Đối với trẻ mẫu giáo, trước tiên giáo viên cần xác định mức độ mục tiêu mà trẻ lớp mình có thể đạt được sau khi học chủ đề này. Từ đó, xác định những nội dung chính [chủ đề nhánh] cho phù hợp với độ tuổi và các hoạt động cho trẻ trải nghiệm để tìm hiểu khám phá thế giới động vật.

Việc xác định trước mục tiêu cũng như mạng nội dung và các hoạt động giúp giáo viên chủ động hơn khi triển khai chủ đề. Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành, giáo viên cần linh hoạt, tìm hiểu để nắm được vốn kinh nghiệm đã có phù hợp với nhu cầu và trình độ phát triển của trẻ trong lớp mình cũng như điều kiện cơ sở vật chất ở địa phương.

Khi trao đổi nhóm, giáo viên có thể liệt kê ra các mục tiêu, sau đó lựa chọn các mục tiêu phù hợp. Dưới đây là một số gợi ý cụ thể cho giáo viên khi viết phần mục tiêu giáo dục của chủ đề “Thế giới động vật”.

Sau khi học xong chủ đề này trẻ có thể :

– Về thể chất

  + Thực hiện thành thạo một số vận động cơ bản [ bò, chui, chạy, nhảy, bắt chước dáng di của con vật].

  + Có khả năng phối hợp vận động và các giác quan [tay – mắt] chính xác.

  + Cảm nhận được sự sảng khoái, dễ chịu khi tiếp xúc với môi trường thiên nhiên trong lành và các con vật quen thuộc gần gũi.

– Về ngôn ngữ

  + Biết sử dụng các từ chỉ tên gọi, các bộ phận và một số đặc điểm nổi bật, rõ nét của một số con vật gần gũi.

  + Biết nhận xét, nói và kể lại những điều mà trẻ quan sát được ; biết trao đổi thảo luận với người lón và các bạn về con vật, về những sự việc, hiện tượng, … đã được nhìn thấy.

– Về nhận thức

  + Phát triển tính tò mò, ham hiểu biết, óc quan sát, phán đoán, khả năng so sánh, phân loại nhận xét [theo các đặc điểm, số lượng, hình dạng và kích thước, …] về các sự vật, các con vật quen thuộc, môi trường thiên nhiên xung quanh.

  + Có một số kiến thức hiểu biết sơ đẳng, thiết thực về một số con vật gần gũi, lợi ích cũng như tác hại của chúng đối với đời sống con người.

– Về tình cảm – xã hội

  + Yêu thích các con vật nuôi, mong muốn bảo vệ môi trường sống và các con vật quý hiếm.

  + Quý trọng người chăn nuôi.

  + Có một số thói quen, kĩ năng đơn giản, cần thíết về việc bảo vệ, chăm sóc vật nuôi sống gần gũi trong gia đình, trường lớp mầm non.

– Về thẩm mĩ

  + Yêu thích cái đẹp và sự đa dạng phong phú của thế giới động vật.

  + Thể hiện cảm xúc, tình cảm về thế giới động vật qua các tranh vẽ, bài hát, múa, vận động, …

Căn cứ vào mục đích giáo dục, giáo viên xác định nội dung cho từng lĩnh vực. Giáo viên có thể sử dụng sơ đồ mạng để thiết kế mạng chủ đề  [bao gồm mạng nội dung và mạng hoạt động].

– Mạng nội dung chứa đựng những nội dung chính trong 5 lĩnh vực của Chương trình có liên quan đến chủ đề, mà qua đó giáo viên muốn cung cấp những kiến thức [khái niệm, thông tin], kĩ năng, thái độ đến cho trẻ.

– Mạng nội dung giúp cho giáo viên biết trình tự thực hiện trước sau : từ những nội dung, kiến thức, kĩ năng đơn giản, gần gũi đến mở rộng, phức tạp hơn ; từ những điều trẻ đã biết đến chưa biết, và biết một cách đầy đủ trọn vẹn hơn ; từ tổng thể đến chi tiết, sao cho phù hợp với độ tuổi và sự hiểu biết của trẻ theo nguyên tắc đồng tâm phát triển. Từ chủ đề chính, giáo viên có thể phân chia thành các chủ đề nhánh. Mỗi chủ đề nhánh có thể thực hiện trong thời gian 1 – 2 tuần.

– Giáo viên lưu ý việc chọn tên cho chủ đề và phát triển mạng nội dung cần dựa trên đặc điểm, nhu cầu của lứa tuổi và hứng thú của trẻ trong nhóm. Phần đông, trẻ lở lớp mẫu giáo lớn đã có một số kiến thức hiểu biết nhất định về chủ đề “Thế giới động vật ” từ lớp dưới. Do đó, nội dung cung cấp cho trẻ tìm hiểu cần phong phú hơn. Ví dụ : Giáo viên có thể tạo điều kiện cho trẻ tìm hiểu quá trình gà đẻ trứng rồi từ trứng nở thành gà con ; quá trình làm ra sữa bò ; tìm hiểu môi trường sống của các loài vật khác nhau ; ảnh hưởng của môi trường sống đến sự sống của các con vật, … Như vậy, các kiến thức đến với trẻ luôn mang tính tích hợp, đồng tâm, phát triển.

Lưu ý : Khi biểu đạt nội dung thường bắt đầu bằng danh từ.

Ví dụ : Mạng nội dung chủ đề “Thế giới động vật”

– Tên gọi.

– Đặc điểm nổi bật ; sự giống nhau và khác nhau của một số con vật về cấu tạo, hình dáng, kích thước, màu sắc, thức ăn, vận động, nơi sống, …

– Ích lợi hay tác hại.

– Mối quan hệ giữa cấu tạo với môi trường sống, với vận động, cách kiếm ăn.

– Nguy cơ tuyệt chủng một số loài vật quý hiếm, cần bảo vệ.

– Tên gọi

– Đặc điểm  nổi bật ;

sự giống nhau và khác nhau  về , hình dáng, kích màu sắc, thức ăn, ận động

– Ích lợi.

– Cách chăm sóc, bảo vệ.

– Tên gọi

– Đặc điểm nổi bật ;

sự giống nhau  và về cấu tạo cấu tạo, hình dáng kích thước, màu sắc, thức
ăn, vận động, nơi  sống …

– Ích lợi và các món ăn cá, tôm, …

– Mối quan hệ giữa cấu tạo với vận động và môi trường sống.

– Tên gọi

– Đặc điểm nổi bật ; sự giống nhau và khác nhau về cấu tạo, bộ phận chính, hình dạng, màu sắc, vận động, thức ăn, nơi sống, …

– Ích lợi hay tác hại.

– Bảo vệ hay diệt trừ.

– Mối quan hệ giữa cấu tạo với môi trường sống, hình thức vận dộng và cách kiếm mồi

– Tên gọi

– Đặc điểm nổi bật, sự giống nhau và khác nhau về cấu tạo, màu sắc, hình dạng, thức ăn, nơi sống, vận động – Ích lợi hay tác hại

– Càch chăm sóc, bảo vệ.

– Mối quan hệ giữa cấu tạo với môi trường sống, hình thức vận động và cách kiếm mồi.

– Xây dựng Mạng hoạt động là đưa ra hàng loạt các hoạt động giáo dục theo chương trình mà giáo viên dự kiến cho trẻ trải nghiệm hằng ngày, hằng tuần để tìm hiểu, khá phá các nội dung của chủ đề , từ đó rẻ tiếp thu được các kĩ năng, kinh nghiệm cần thíết cho sự phát triển toàn diện của trẻ.

– Mạng hoạt động gợi cho giáo viên cách thức tỉếp cận dạy và học tích hợp trong giáo dục mầm non. Đó là cách thức phối hợp một cách tự nhiên những hoạt động cho trẻ trải nghiệm như hoạt động ; khám phá khoa học về tự nhiên – xã hội ; làm quen với toán ; phát triển vận động tạo hình [vẽ, tô màu, nặn, xé, gấp, cắt, dán và các loại trò chơi] ; các hình thức lao động phù hợp nhằm giúp trẻ phát triển đồng thời các mặt nhận thức ; ngôn ngữ, thể lực, tình cảm, xã hội và thẩm mĩ, Cách tiếp cận này cho phép giáo viên có thể điều chỉnh giáo án một cách linh hoạt, có thể đưa vào các tình huống tự nhiên vào kế hoạch hằng ngày nhằm dáp ứng như cầu, hứng thú của trẻ và làm cho không khí lớp học thêm sinh động.

– Nhờ sơ đồ mạng, giáo viên sẽ dễ dàng nhìn thấy sự liên kết giữa các nội dung giáo dục và các hoạt động, sự đan xen giữa các lĩnh vực phát triển trẻ, như vậy khi tiến hành sẽ ít bị động và làm tăng hiệu quả giáo dục.

Ví dụ : Mạng hoạt động chủ đề “Thế giới động vật”.

Làm quen với toán

– Nhận biết, phân biệt các động vật theo nhóm.

– Đếm số lượng các con vật ; nhận biết mối quan hệ hơn kém trong phạm vi 8 – 10, thêm bớt ; nhận biết các con số.

– Phân biệt các hướng và chơi các trò chơi học tập

– Các hoạt động khác : Tham quan các bài về các con vật

[Ví dụ : Phía phải, phía trái của các con vật]

“Thương con mèo”, “Gà gáy vang dậy bạn ơi”,  “Tiếng chú gà trống gọi” “Con chim non”

Khám phá khoa học

– Quan sát, trò chuyện, đàm thoại về những đặc điểm, nơi ở, … của các con vật, ích lợi [có hại] đối với con người, sự chăm sóc, bảo vệ [diệt trừ].

– Đàm thoại, trò chuyện : cách bảo vệ môi trường thiên nhiên. khu chăn nuôi, sở thú ; xem xiếc,

Âm nhạc

– Học hát , nghe hát, vận động theo nhạc các trò chơi âm nhạc :

Tạo hình

– Vẽ, nặn, xé dán, tô màu, …con vật.

– Gấp con mèo, …

– Làm nhà từ hộp các tông cho chó, mèo chăm sóc bảo vệ các con vật và thu thập tranh ảnh hoặc sách truyện về các con vật.

– Trò chơi học tập : “Phân loại các con vật”, …

Chơi xếp hình, chắp ghép về các con vật

Vận động : Đi kiễng chân, bật xa, bò chui qua cổng , trèo lên , trèo xuống, chuyền bóng, ném xa, …

– Trò chơi vận động : “Bát chước dáng đi của các con vật”, “Chó sói

– Trò chuyện về các con xấu tính”, …

– Trò chơi đóng vai để giúp trẻ biểu lộ cảm xúc, giáo dục giới tính hợp tác qua trò chơi :

– Đọc thơ, kể chuyện , đồ vui, trò chuyện về  con vật mà trẻ yêu thích : “Mèo đi câu cá”, “Ba chú lợn con”, ”Gà mẹ đếm con”, “Sơn tình”, “Cáo Thỏ và Gà Trống” , … “Kể cho bé nghe”, “Đàn gà con”, “Lợn con lấm lem”, …

– Làm quen với chữ cái và chữ viết tên các con vật [tìm chữ cái đầu tiên, tìm âm, tìm từ, ghép chữ cái/ từ, đặt câu đơn giản].

– Làm sách tranh, và kể về các con vật nuôi, các con vật sống trong rừng, dưới nước, côn trùng.

– Thực hành , quan tâm chăm sóc các con vật và bộc lộ cảm xúc về các con vật yêu thích. Vật mà trẻ yêu thích.

+ Trại chăn nuôi. Công viên, Sở thú, …

+ Xây dựng trại chăn nuôi.

+ Bác sĩ thú y.

+ Cửa hàng thực phẩm.

+ Cửa hàng “Triển lãm tranh về các con vật

đáng yêu”.

Sản xuất thú nhồi bông, …

– Kể chuyện sáng tạo với nội dung về các con vật và môi trường sống của chúng.
– Trò chơi đóng kịch : “Cáo Thỏ và Gà trống”, …

Xây dựng ý tưởng chơi của các nhóm phù hợp với chủ đề chơi chung.Khi trẻ đã về các nhóm chơi, giáo viên gợi ý để trẻ trong nhóm tự phân vai chơi, phân công các công việc trong nhóm, bàn bạc cách thức và trình tự thực hiện các công việc của nhóm.

– Giáo viên luôn quan sát các nhóm chơi và quá trình chơi của trẻ. Với trò chơi mới và khó, giáo viên có thể giúp đỡ bằng các câu hỏi gợi ý, khuyến khích trẻ tích cực sử dụng kinh nghiệm sẳn có của mình vào quá trình chơi. Cô giáo tạo cơ hội và mở rộng dần các mối quan hệ giữa trẻ trong nhóm chơi, giữa các nhóm chơi trong khu vực hoạt động khávc nhau, giúp cho các trò chơi trở nên phong phú và hấp dẫn. Ví dụ : “Mẹ” không chỉ khuấy bột, cho con ăm mà còn run con ngủ, khi cho con ăn xong còn lau miệng, cho uống nước hoặc thay quần áo cho con ; “bố” không chỉ giúp “mẹ” đưa con đi vườn trẻ hoặc đi khám bệnh, cùng mẹ đi mua sắm mà còn giúp “mẹ” trang trí, kê dọn căn phòng cho đẹp đẽ  hơn ; “bác sĩ” khám bệnh xong còn ghi đơn thuốc, hướng dẫn “bệnh nhân”  cách điều trị ; “y tá” gọi bệnh nhân vào khám bệnh theo số thứ tự, biết sát trùng bằng bông cồn trước khi tiêm thuốc ; “bác sĩ, y tá” có thể đến trường mầm non khám sức khỏe cho trẻ hoặc đến công trường xây dựng khám cho công nhân, …

– Trong quá trình chơi, cần phát huy tính sáng tạo của trẻ, không nên gò trẻ chơi rập khuôn theo mẫu hoặc áp đặt trẻ, luôn tôn trọng ý kiến của trẻ. Tránh can thiệp và ngăn cản khi rẻ đang chơi nếu chưa hiểu rõ ý định của trẻ. Khéo léo hướng trẻ phát triển trò chơi có mục đích và có tính giáo dục.

– Theo dõ và quan sát nhóm chơi để có kế hoạch gợi ý thay đổi vai chơi hợp lí. Giáo viên thường xuyên chú ý tới mối quan hệ của trẻ trong các vai chơi để hình thình tính tự lập, tự tin ở trẻ. Không nên để trẻ nào đó đóng vai chính [vai thủ lĩnh] quá lâu.

– Với lớp mẫu giáo lớn, giáo viên có thể cho tập trung cả lớp nhận xét sau khi chơi theo yêu cầu của chủ đề chơi và nhiệm vụ đặt ra khi thỏa thuận chơi. Giáo viên gợi ý để trẻ tự nhận xét mình và bạn chơi về cách chơi với đồ chơi, thể hiện hành động theo vai chơi trong các nhóm chơi gắn với chủ đề chơi, thói quen cất dọn đồ dùng, đồ chơi ngăn nắp gọn gàng sau khi chơi xong của các nhóm chơi.

* Ví dụ gợi ý tổ chức đóng vai “Gia đình” – Chủ đề “Gia đình”

Mục đích

– Trẻ biết và thể hiện được các vai là thành viên của gia đình [bố mẹ và các con], nhận biết vai trò của bố mẹ, con cái trong gia đình [bố mẹ chăm sóc con cái và con cái biết giúp đỡ bố mẹ những công việc vừa sức].

– Nhận biết một số nhu cầu thiết yếu trong gia đình và một số yêu cầu trong giao tiếp với người khác. Ví dụ : Người bán hàng phải biết nói và mời chào khách hàng lịch sử, niềm nở, vui vẻ, …

– Biết liên kết các nhóm chơi. Ví dụ : phối hợp nhóm chơi “Gia đình” với nhóm “Cửa hàng mua bán” và các nhóm chơi khác, …].

Chuẩn bị

– Cho trẻ kể về gia đình mình : có bao nhiêu người , gồm những ai, kể về những lần được đi mua sắm [thức ăn, quần áo, đồ chơi], đi chơi cùng bố mẹ. Giáo viên khơi gợi giúp trẻ nhớ lại những công việc của các thành viên trong gia đình, cho trẻ xem tranh về trang trí các căn phòng của gia đình, hỏi trẻ trong các căn phòng đó có những gì.

– Bộ đồ chơi nấu ăn, bếp ga, giá đựng hàng, gương, tủ quần áo, giày dép, khăn mũ, …

– Búp bê các loại, các khối hộp dùng làm tủ lạnh, tivi, máy vi tính, điện thoại, …

Tiến hành

– Giáo viên gợi ý cho trẻ cùng nhau tự thỏa thuận chọn trò chơi, bàn bạc về chủ đề chơi. Khi rtẻ đã nhất trí chọn chơi ở nhóm chơi “Gia đình”, giáo viên gợi ý cho trẻ thảo luận về nội dung chơi của nhóm : Nên có mấy “Gia đình”, giáo viên gợi ý cho trẻ thảo luận về nội dung chơi của nhóm : Nên có mấy “gia đình” cùng ở trong khu chung cư/ khu tập thể/ xóm. Giáo viên có thể hỏi trẻ : “Trong gia đình, ai sẽ là bố, ai sẽ là mẹ, ai sẽ là con ?”, “Hôm nay gia đình sẽ làm những gì”, “Bố, mẹ làm những công việc gì ?”, “Ai đưa các con đi học ?”, “Các con làm những gì để giúp đỡ bố mẹ ?”, “Ngày chủ nhật mỗi gia đình sẽ đi đâu ? làm những gì ?” [đi mua sắm đồ dùng gia đình hay sẽ trang trí, bố trí căn phòng như thế nào cho đẹp]v.v…

– Để liên kết các góc chơi, giáo viên hỏi trẻ nhóm chơi “Cửa hàng/ siêu thị” : “Cửa hàng/ Siêu thị/ Cửa hàng thực phẩm thường bán những hàng gì để phục vụ cho các gia đình ?”. Giáo viên để trẻ tự chọn trong nhóm một “Cửa hàng trưởng” điều khiển trò chơi. Ví dụ : “Bạn Lan, theo tôi có thể làm “Giám đốc cửa hàng” vì bạn Lan biết quán xuyến công việc, biết tôn trọng mọi người”, “Bạn Hoa có thể làm người bán hàng vì bạn luôn gọ gàng, ngăn nắp, cẩn thẩn, vui vẻ với mọi người”. Sau khi đã thỏa thuận xong, các nhóm triển khai theo dự định. “Giám đốc cửa hàng” trực tiếp chỉ huy nhân viên sắp xếp hàng hóa vào giá để bán, chuẩn bị quầy thu tiền, máy tính tiền, … Nhân viên bán hàng giới thiệu mặt hàng khi có khách hàng đến mua, giá cả các mặt hàng, … Giáo viên cùng đóng vai chơi, hướng dẫn trẻ xếp hàng chờ đến lượt mình hoặc cách giao tiếp với người mua và người bán.

– Giáo viên gợi ý các “gia đình” có thể đưa “con” đi đến “Phòng khám da khoa” để kiểm tra sức khỏe, đi mua sắm các đồ dùng gia đình, thực phẩm, đi tham quan công trường xây dựng chung cư, …

– Khi nhận xét, giáo viên nên tập trung chú ý hơn vào những nhóm chơi chính như nhóm chơi “Gia đình”, nhóm chơi “Cửa hàng siêu thị”, nhóm chơi “Xây dựng chung cư”, … Cô có thể hỏi trẻ : “Bố mẹ đã làm được gì cho các con ?”, “Thái độ của những người bán hàng ra sao ?” ; khuyến khích trẻ tự suy nghĩ có ý tưởng mở rộng hoặc phát triển nội dung chơi lần sau. Ví dụ : Buổi sau có thể mở thêm quầy bán đồ chơi.

  1. b] Trò chơi đóng kịch [Xem “Trò chơi đóng kịch” trang 123 – Phần “Phát triển ngôn ngữ”]

– Trò chơi đóng kịch là dạng của trò chơi phân vai theo các tác phẩm văn học – kịch bản phỏng theo câu truyện và các vai là những nhân vật trong truyện.

– Trò chơi đóng kịch được tổ chức như một hoạt động sáng tạo, tự lập của trẻ. Trò chơi đóng kịch hướng đến hoạt động biểu diễn văn nghệ.

* Một số trò chơi đóng kịch và lựa chọn

– Phụ thuộc vào nội dung giáo dục, chủ đề đang triển khai, kinh nghiệm, nội dung của các câu chuyện mà trẻ đã nắm được và điều kiện cụ thể, giáo viên có thể gợi ý giúp trẻ lựa chọn những trò chơi hoặc sử dụng rối đóng kịch gắn với các tác phẩm mà trẻ đã biết : “Món quà của cô giáo”, “Thỏ Xám đi tìm bạn”, “Cậu bé mũi dài”, “Hai anh em”, “Tích chu”, “Ba cô gái”, “Ba điều ước”, “Qua đường”, “Chú đỗ con ”, “Sự tích hoa hồng”, “Sự tích bánh chưng, bánh giầy”, “Sự tích mùa xuân”, “Nàng tiên mùa xuân”, “Chuyện ông Gióng”v.v…

– Ví dụ : Với chủ đề “Gia đình”, giáo viên có thể gợi mở, hướng trẻ tự chọn trò chơi đóng kịch phỏng theo truyện phù hợp như “Gấu con chia quà”, “Một bó hoa tươi thắm”, “Bác Gấu đen và hai chú thỏ”, …

– Trò chơi đóng kịch có thể chơi vào buổi chiều, 1 – 2 lần/ tuần

* Hướng dẫn thực hiện

– Tương tự trò chơi đóng vai, giáo viên nên lần lượt cho tất cả trẻ được tham gia sắm vai những nhân vật trong truyện.

– Giáo viên phải chọn truyện có các nhân vật đối thoại, nội dung hấp dẫn. Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, cung cấp nhiều cơ hội, các hình thức khác nhau để trẻ nhớ cốt truyện, thuộc lời thoại của các nhân vật trong tác phẩm.

* Ví dụ gợi ý tổ chức trò chơi đóng kịch phỏng theo truyện “Tích Chu”

Mục đích

– Thể hiện các vai của các nhân vật trong truyện một cách diễn cảm.

­- Thể hiện những cảm xúc, có thái độ  phù hợp tương ứng với các nhân vật trong tác phẩm qua vai diễn.

– Hào hứng tham gia vào trò chơi.

Chuẩn bị

– Cho trẻ thuộc nội dung truyện “Tích Chu”, tập động tác và lời nói của từng nhân vật trong truyện.

– Trang phục cho bà già, bà tiên, Tích Chu và mũ rối cho chim.

– Cây cối, một số cảnh liên quan đến truyện “Tích Chu”.

Tiến hành

– Giáo viên xây dựng và cho trẻ làm quen với kịch bản, hỏi trẻ để trẻ nhớ các lời đối thoại của các nhân vật, tính cách, tình cảm của các nhân vật trong truyện “Tích Chu”.

– Để trẻ tự nhận hoặc phân công các vai : bà, cháu và bà tiên.

– Lúc đầu, giáo viên là người dẫn chuyện, khi trẻ đã quen, cô để trẻ xung phong làm người dẫn chuyện, chơi và tập đóng các vai diễn.

– Giáo viên và trẻ cùng phân tích các vai diễn và trao đổi rút kinh nghiệm, nhận xét các vai chơi để lần sau chơi tốt hơn.

– Giáo viên cho trẻ lân lượt thay nhau sắm các vai khác nhau.

  1. c] Trò chơi xây dựng, lắp ghép

– Nội dung các công trình xây dựng, sản phẩm của trò chơi lắp ghép thường gắn với chủ đề chơi của trò chơi đóng vai và gắn với chủ đề giáo dục đang triển khai, phản ánh ấn tượng, biểu tượng và hiểu biết của trẻ về thế giới vật chất thông qua hình khối. Trẻ có thể sử dụng sáng tạo, đa dạng các loại nguyên vật liệu : các hình khối với các kích thước, màu sắc khác nhau, các viên gạch trò chơi, các khuôn gỗ, các khối nhựa ghép hình, bộ lắp ráp với các màu khác nhau, đồ chơi với, cát, nước, trò chơi có sẵn [ô tô, máy bay, …].

– Cần có không gian phù hợp để triển khai trò chơi xây dựng, lắp ráp những “công trình” phức tạp bằng các vật liệu khác nhau, với bố cục phù hợp. Cho trẻ sử dụng đồ chơi, đồ dùng trong lớp, các sản phẩm từ những hoạt động của các nhóm chơi khác vào trò chơi xây dựng.

– Sản phẩm các “công trình xây dựng” thường phù hợp với chủ đề chung, và có mối quan hệ gắn bó với các nhóm chơi khác.

* Một số trò chơi xây dựng, lắp ráp và lựa chọn

– Tùy thuộc vào chủ đề đang triển khai và điều kiện cụ thể, giáo viên có thể gợi ý, khơi gợi hứng thú của trẻ lựa chọn các trò chơi phù hợp : “Lắp ráp – ghép hình các con vật”, “Phương tiện giao thông”, “Công cụ hoạt động, bàn ghế”, “Xây dựng trường mầm non ”, “Phương tiện giao thông”, “Công cụ lao động, bàn ghế”, “Xây dựng trường mầm non”, “Lắp ghép các kiểu nhà : nhà một tầng, nhà hai tầng, nhá ba tầng”, “Xây dựng khu tập thể/ trại chăn nuôi/ Xây dựng doanh trại quân đội/ Xây dựng công viên/ Xây dựng cầu [nhà ga, bãi đổ xe, bến tàu, sân bay, lăng Bác, …]”

– Ví dụ chủ đề “Bản thân” : “Xếp em bé”, “Bạn của bé”, “Bé tập thể dục”, “Xây ngôi nhà của bé”, “Lắp ráp bàn ghế, tủ, giá sách, đồ dùng – trò chơi”, …

– Trò chơi xây dựng, lắp ráp thường chơi vào buồỉ sáng ở các góc và chơi theo ý thích vào buổi chiều.

* Hướng dẫn thực hiện

– Trò chơi xây dựng phải là những vật liệu đơn lẻ, rời để trẻ tự lắp ghép xây dựng theo chủ đề. Tuyệt đối không sử dụng các đồ chơi lắp ráp sẳn. Có thể sử dụng bàn ghế của trẻ trong lớp.

– Các vật liệu, đồ chơi, đồ dùng cần thíết, được bố trí, chuẩn bị ở giá, bàn, sao cho chúng ở trong tầm mắt của trẻ, nhằm kích thích trẻ nảy sinh ý tưởng chơi gắn với chủ đề.

– Khi tổ chức cho trẻ chơi, phụ thuộc vào chủ đề chung, giáo viên khơi gợi, kích thích trẻ đưa ra ý tưởng chơi : “Chơi gì ?” và ”Chơi như thế nào ?” ; Cách chọn vật liệu theo màu sắc, kích thước, hình dánhg, trình tự xếp [xây dựng], lắp ráp ; gợi cho trẻ nhớ lại những vật hoặc cảnh đã thấy để trẻ xây dựng.

– Giáo viên nên khơi gợi trẻ thay đổi kiểu lắp ráp, xây dựng để tạo ra nhiều cách cấu trúc, tránh sự lặp đi lặp lại giống nhau làm trẻ nhàm chán và không phát huy đưọc khả năng sáng tạo. Giáo viên động viên kịp thời những sáng tạo của trẻ thể hiện ở bố cục  công trình và kĩ năng xây dựng.

– Nếu cẩn xây dựng với bố cục, công trình lớn, giáo viên gợi ý để tự trẻ phân công công việc và thỏa thuận trách nhiệm giữa các thành viên trong nhóm chơi một phần công việc xây dựng.

– Trong khi trẻ chơi, giáo viên theo dõi, giúp đỡ, tham gia ý kiến, cung cấp thêm đồ chơi bổ sung vào những vào những vật liệu xây dựng sẵn có.

– Cuối buổi chơi, nếu trẻ thích, có thể cho trẻ giữ lại công trình xây dựng một thời gian nhưng không làm ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của lớp.

– Cuối buổi chơi, nếu trẻ thích, có thể cho trẻ giữ lại công trình xây dựng một thời gian nhưng không làm ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của lớp.

– Nhận xét của giáo viên và trẻ hướng tới chất lượng và vẻ đẹp của công trình.

* Ví dụ gợi ý tổ chức trò chơi “Xây khu tập thể”

Mục đích

Hào hứng chơi, xếp được các kiểu nhà khác nhau, đường đi, sân chơi, vườn hoa, cây xanh liên kết hợp lí.

– Kể lại được cách xây.

Chuẩn bị : Nguyên vật liệu, phân chia “đất xây dựng” và xây theo ý thích.

– Cho trẻ lựa chọn nguyên vật liệu, phân chia “đất xây dựng” và xây theo ý thích.

Tiến hành

– Cho trẻ lựa chọn nguyên vật liệu, phân chia “đất xây dựng” và xây theo ý thích.

– Trang trí công trình.

– Đặt tên ngôi nhà, khu nhà xây được và nói cách xây.

  1. d] Trò chơi học tập và trò chơi vận động

Khi lựa chọn trò chơi học tập và trò chơi vận động giáo viên cần :

– Căn cứ vào thực tế của nhóm/ lớp, hứng thú, mục đích, nội dung và nhiệm vụ nhận thức trọng tâm của hoạt động học có chủ định.

– Đảm bảo tính tích hợp của nội dung giáo dục và những nội dung cần được tiếp tục củng cố luyện tập.

– Căn cứ vào các hoạt động mang tính tĩnh và động.

Trò chơi học tập

Trò chơi học tập giúp rèn luyện và phát triển các giác quan, năng lực trí tuệ của trẻ như nhận xét, so sánh, phân tích,  tổng hợp, tư duy ngôn ngữ, … Giáo viên cần hướng hứng thú của trẻ vào đồ chơi [hình dáng, màu sắc, kích thước].

* Lựa chọn trò chơi học tập

– Tùy theo chủ đề và điều kiện cụ thể có thể gợi ý trẻ chọn những trò chơi học tập phù hợp. Ví dụ : Với chủ đề “Nghề nghiệp”, trẻ có thể chơi : “Ai đoán đúng ?”, “Khâu quần áo, con giống”, “Cửa hàng quần áo”, “Bày cửa hàng”, “Chơi xổ số”, …

– Trò chơi học tập được sử dụng vào một phần của giờ học và là phương pháp tiến hành hoạt động học có chủ định, có thể tổ chức chơi ở các góc vào buổi chiều, trong thời điểm đón, trả trẻ.

* Hướng dẫn thực hiện

– Chuẩn bị đồ chơi, đồ dùng, học liệu cần thíết cần thiết đủ cho mỗi trẻ, lựa chọn trò chơi phù hợp với mục đích, nội dung và gần với chủ đề.

– Giáo viên giải thích ngắn gọn và hướng trò chơi vào nhiệm đúng luật chơi.

– Nếu trò chơi mới, khó, giáo viên yêu cầu trẻ thực hiện đúng luật chơi.

– Khi trẻ chơi sai luật, giáo viên yêu cầu trẻ nhắc lại và thực hiện đúng. Nếu trẻ chưa nắm được, giáo viên có thể yêu cầu trẻ khác nhau giúp bạn.

– Dần dần, giáo viên hưóng cho trẻ không chỉ chú ý vào quá trình chơi mà còn chú ý cả vào kết quả của trò chơi bằng cách tổ chức những trò chơi đã biết dưới hình thức thi đua hay đánh giá thành tích giữa trẻ với nhau.

– Những trò chơi mới có luật phức tạp, giáo viên giúp trẻ hiểu qua nhiều lần chơi.

– Giáo viên cần chú ý phát huy tính tích cực của trẻ, tạo điều kiện cho trẻ suy nghĩ, quan sát, chú ý phát triển ngôn ngữ trong quá trình chơi.

– Giáo viên có thể thay đổi nội dung của một số trò chơi cho phù hợp với chủ đề. Ví dụ : “Vật gì” trong trò chơi “Thêm vật gì, bớt vật gì” có thể là các đồ dùng, trò chơi  cho chủ đề “Trường mầm non ”, mà cũng có thể là dụng cụ lao động cho chủ đề “Nghề nghiệp”.

* Ví dụ gợi ý tổ chức trò chơi “Đây là cái gì ? Làm bằng gì”

Mục đích : Trẻ xếp từng loại đồ vật theo chất liệu.

Chuẩn bị : Một số đồ dùng, đồ chơi nhỏ làm bằng nhựa, gỗ, nhôm.

Tiến hành

– Cho trẻ cầm đồ vật trong tay, giáo viên hỏi : “Cháu cầm cái gì ? Làm bằng gì ?”.

– Khi trẻ đã chơi thành thạo, giáo viên bỏ tất cả đồ vật vào một tuí to rồi yêu cầu trẻ vật làm bằng nhựa. Khi trẻ lấy một số vật ra khỏi túi, giáo viên yêu cầu trẻ gọi tên động vật.

– Ai làm đúng sẽ được tiếp tục chơi, ai làm sai sẽ mất lượt chơi.

Trò chơi vận động

– Là loại trò chơi sử dụng cơ bắp và toàn bộ cơ thể. Trò chơi vận động phát triển cả vận động thô và tinh, cũng như sự kiếm soát các cơ và các kĩ năng phối hợp. Trò chơi vận động giúp trẻ hiểu biết về không gian và hình thành tính tự tin, ý thức tổ chức kỉ luật, tinh thần tập thể.

– Trẻ có thể thực hiện chuỗi động tác và biết phối hợp nhịp nhàng theo nhóm.

– Trò chơi vận động thường phù hợp với không gian bên ngoài hơn trong phòng.

* Lựa chọn trò chơi vận động

– Tuy theo chủ đề và điều kiện cụ thể có thể gợi ý trẻ chọn những trò chơi vận động phù hợp. Ví dụ : Với chủ đề “Giao thông”, trẻ có thể chơi : “Thuyền vào bến”, “Đèn đỏ, đèn xanh”, “Chèo thuyền”, “Thuyền vào bến”.

– Trò chơi vận động chơi sau các hoạt động tĩnh, sua khi ngủ dậy và trong thời gian vui chơi ngoài trời. Trò chơi kéo dài không không quá 20 phút.

* Hướng dẫn thực hiện

– Căn cứ vào mục đích, nội dung giáo dục, điều kiện không gian thực tế, nội dung hoạt động trước, sau và thời tiết để tổ chức trò chơi vận động.

– Giáo viên giải thích nội dung, luật chơi.Trẻ tự nhận hoặc bầu ra người “chủ trò”.

– Khi chơi, giáo viên tạo điều kiện cho trẻ thể hiện hành động của mình một cách sáng tạo.

– Những trò chơi mang tính chất thi đua, giáo viên nên chọn những trẻ tương đương về sức khỏe, trình độ chơi và số lượng trẻ chơi của từng nhóm như nhau.

– Đối với trò chơi đã biết, giáo viên cho trẻ chơi của từng nhóm như nhau.

– Đối với trò chơi đã biết, giáo viên cho trẻ nhắc lại luật chơi và yêu cầu trẻ thực hiện đúng luật. Để trò chơi không bị nhàm chán, tăng thêm hứng thú cho trẻ, kích thích trẻ hoạt động tích cực, tự lực và sáng tạo hơn, giáo viên nên điều chỉnh hình thức, nâng cao yêu cầu của trò chơi, đưa thêm những vận động mới, thay đổi nhịp độ, đội hình, … Trong quá trình tổ chức cho trẻ chơi, cần chú ý động viên những trẻ thiếu mạnh dạn, nhút nhát tham gia hoạt động, đồng thời cũng không để trẻ tham gia quá sức ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ.

– Nội dung chơi có những câu thơ, bài hát thì giáo viên cần hướng dẫn cho trẻ học thuộc những câu thơ, bài hát trước khi chơi.

* Ví dụ gợi ý tổ chức trò chơi “Bẫy chuột”

Mục đích : Tạo cho trẻ phản xạ nhanh theo tín hiệu, phát triển vận động cơ bản – bò.

Chuẩn bị : Luật chơi : Con chuột nào bị chạm vào người con như bị mắc bẫy và phải ra ngoài một lần chơi.

Tiến hành : Chia trẻ làm hai nhóm, một nhóm làm “chuột”, một nhóm làm “bẫy” [hai trẻ cầm tay nhau thành một cái bẫy]. Những cái “bẫy” rải đều khắp phòng. Các con “chuột” bò quanh và chui qua, chui lại dưới các “bẫy”, vừa bò vừa kêu “chít, chít”. Khi có tín hiệu “bẫy sập” thì hai người coi như bị bắt và phải ra ngoài một lần chơi. Trò chơi tiếp tục, sau 2 – 3 lần chơi, trẻ đổi vai chơi cho nhau.

– Là những trò chơi được sáng tạo, lưu truyền tự nhiên, rộng rãi từ thế hệ này sang thế hệ khác, mang đậm bản sắc văn hóa dân gian. Trò chơi dân gian không chỉ thỏa mãn nhu cầu trò chơi của trẻ mà còn góp phần hình thành nhân cách của trẻ.

– Trò chơi dân gian phần lớn là những trò chơi có lời đồng dao. Đặc điểm cơ bản của trò chơi gân gian là luật chơi của từng trò chơi mang tính ước lệ, tàm thời. Trong Quá trình chơi, tùy theo trình độ vốn kinh nghiệm của trẻ, mức độ của từng trò chơi, Giáo viên có thể thay đổi luật chơi cho phù hợp, hấp dẫn và hứng thú. Vì vậy, cùng một trò chơi mà mỗi lần chơi có thể chơi theo cách riêng, không nên bắt trẻ rập khuôn theo một kiểu chơi.

* Một số trò chơi dân gian và lựa chọn

– Trên cơ sở các tài liệu, sách tham khảo như  “Tuyển chọn trò chơi, bài hát, thơ ca, truyện, câu đố theo chủ đề cho trẻ [5 – 6 tuổi]” ; tùy theo chủ đề, điều kiện cụ thể và ý thích của trẻ, có thể gợi ý trẻ chọn những trò chơi dân gian để lập kế hoạch chơi và tổ chức thực hiện cho phù hợp. Ví dụ : Chủ đề “Thế giới động vật” : “Mèo bắt chuột”, “Mèo và Chim Sẻ”, “Cáo và Thỏ”, “Đàn chuột con”, “Cho thỏ ăn”, “Gấu và người thợ săn”, “Bắt chước tạo dáng”, “Sói và Dê”, “Bắt bướm”, …

– Trò chơi dân gian nên chơi ở ngoài trời.

* Hoạt động thực hiện

– Khi hướng dẫn trò chơi dân gian, giáo viên cần lưu ý đến nhiệm vụ của trò chơi. Trong các trò chơi có lời đồng dao nhằm kết hợp vui chơi với luyện phát âm cho trẻ, giáo viên phải chú ý cho trẻ phát âm rõ và chính xác. Những lời đồng dao cho xướng âm động viên nhấn mạnh vào các nhịp [nhịp 2 từ, 3 hoặc 4 từ].

– Khi cho trẻ chơi các trò chơi có lời đồng dao, giáo viên đọc đi đọc lại nhiều lần để trẻ thuộc.

– Trong khi chơi, không nên bắt trẻ rập khuôn theo một kiểu chơi. Tùy trình độ và khả năng của trẻ, luật chơi, cách chơi, đồ chơi có thể thay đổi làm cho trò chơi thêm hấp dẫn và hứng thú.

– Với những trò chơi lần đầu, giáo viên thường là “trưởng trò” hoặc là “cái”  chơi cùng với trẻ, thông qua đó để giải thích luật lệ và hướng dẫn trẻ chơi.

* Ví dụ gợi ý tổ chức trò chơi “Ô ăn quan”

Mục đích : Luyện cử động của bàn tay, ngón tay.

Chuẩn bị

– Phấn.

– Hộp đựng.

– 20 hòn sỏ [đá,hột hạt] nhỏ [làm quân] và 2 hòn sỏi to [làm quan].

Tiến hành

– Trên sàn vẽ hai hàng liền nhau, mỗi hàng gồm 5 ô vuông [ô dân], hai đầu có 2 hình bán nguyệt [ô quan].

– Hai trẻ ngồi 2 bên hàng ô dân, rải vào mỗi ô dân 5 quân nhỏ và mỗi ô quan, 1 quân to. Thay nhau đi, mỗi trẻ được đi một lần.

– Trước tiên cho trẻ “oẳn tù tì”, ai thắng được đi trước. Trẻ được chơi bốc quân ở bất kì ô nào bên phía trẻ, rồi rải mỗi ô 1 quân. Rải hết quân, bốc quân ô bên cạnh đi tiếp. Nếu hết quân mà cách 1 ô không có quân thì được ăn quân ô tiếp theo nhưng nếu 2 ô liền nhau không có quân hoặc át ô quan thì mất lượt đi, trẻ khác đi tiếp. Chơi đến khi ô quan hết quân, quân còn lại bên nào thì bên ấy thu về. Nếu 1 trong 2 ô quân mà ô ở phía nào hết quân thì phía ấy phải rải mỗi ô 1 quân để tiếp tục chơi. Trẻ nào không đủ quân để rải thì phải vay cho đủ. ai “ăn” được nhiều quân là thắng.

  1. e] Trò chơi sử dụng phương tiện công nghệ hiện đại [trò chơi với phần mềm máy vi tính, trò chơi điện tử]

– Giáo viên khai thác và lựa chọn nội dung trò chơi qua phần mềm vi tính dành cho bậc học mầm non, phù hợp với nội dung chủ đề đang phát triển khai và nội dung trọng tâm của các lĩnh vực giáo dục [Ví dụ : Phần mềm giáo dục Edmark – Ngôi nhà sách của Bailey ; Ngôi nhà toán học của Millie, …], phát triển ý tưởng từ ngân hàng trò chơi cho trẻ sử dụng.

– Giáo viên gợi ý giúp trẻ sử dụng các lệnh thích hợp để khám phá sự vật, hiện tượng qua các trò chơi mà trẻ lựa chọn.

Lựa chọn đồ dùng đồ chơi theo danh mục thiết bị – đồ dùng – đồ chơi của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Ngoài ra, tùy điều kiện thực tế, giáo viên có thể cùng trẻ làm đồ chơi sử dụng nguyên vật liệu phế phẩm, nguyên vật liệu thiên nhiên, … Cô giáo cần lưu ý đến tính an toàn, vệ sinh của các vật liệu.

  1. Gợi ý lập kế hoạch hoạt động vui chơi
  2. a] Hoạt động vui chơi trong chế độ sinh hoạt

– Thời điểm đón, trả trẻ : Giáo viên tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi học tập, các trò chơi lắp ghép, chơi với trò chơi theo ý thích, xem tranh hoặc có thể chơi một số trò chơi dân gian.

– Thời gian tổ chức chơi và hoạt động ở các góc : Trong thời gian này có thể tổ chức trò chơi đóng vai, trò chơi lắp ghép, xây dựng [ở góc chơi xây dựng], chơi ở góc tạo hình, âm nhạc, góc khám phá khoa học, …

– Thời gian hoạt động ngoài trời : Chủ yếu cho trẻ chơi với các trò chơi vận động với các thiết bị chơi ngoài trời, chơi các trò chơi về giao thông đường bộ, các trò chơi dân gian, chơi với nguyên vật liệu thiên nhiên, cát, nước, …

– Trò chơi dành cho các trò chơi vào buổi chiều : Giáo viên nên tổ chức những trò chơi vận động nhằm làm cho trẻ tỉnh táo sau khi ngủ trưa. Sau đó cho trẻ chơi các trò chơi học tập, hoặc trẻ có thể tham gia vào hoạt động theo ý thích, … Giáo viên  cũng có thể tổ chức một số trò chơi nhằm chuẩn bị nội dung sẽ dạy trẻ ngày hôm sau. Nếu cần, giáo viên có thể sử dụng thời gian này để giao tiếp cá nhân, giúp trẻ phát triển phù hợp với đặc điểm riêng, hòa nhập với cả lớp.

  1. b] Có thể lập kế hoạch hoạt động vui chơi theo bảng sau

Mục đích : Thông qua tổ chức hoạt động chơi, giáo viên giúp hình thành và cũng cố ở trẻ một số hiểu biết, kĩ năng sống và kĩ năng chơi phù hợp với độ tuổi.

Các thơì điểm và các trò chơi Không gian Thiết bị và nguyên vật liệu
– Đón – trả trẻ : Trẻ chơi theo ý thích.

– Chơi, hoạt động ở các góc : Trò chơi đóng vai, xây dựng, lắp ghép, hcơi với phương tiện công nghệ hiện đại [nêu rõ tên các trò chơi, thời gian ].

– Chơi, hoạt động ngoài trời :

Trò chơi vận động, chơi với các thiết bị _ trò chơi ngoài trời, chơi với các vật liệu thiên nhiên, trò chơi dân gian [nêu rõ tên các trò chơi, thời gian].

– Các góc chơi trong lớp [triển khai bao nhiêu góc chơi ? Những góc nào ?] :

– Ví dụ : Chủ đề “Gia đình” có các góc : góc chơi đóng vai [trò chơi “Gia đình của bé”], Liên kết với các góc chơi khác nhau như góc xây dựng, góc tạo hình, …

– Khu vực chơi ngoài sân : chổ chơi với các trò chơi cát

– Nước, mô hình, chơi dụng cụ [vòng, bóng, xe kéo, xe dap ba bánh, …]

– Thiết bị, đồ chơi ngoài trời : xích đu, cầu trượt, bập bênh, thùng, các dạng đu quay, …

– Nguyên vật liệu : Vật liệu thiên nhiên [nước, cát, hoa, lá, sỏi, đá, …], những thứ sưu tầm  [phế liệu, đồ dùng gia đình, …], những đồ chơi được đem ra từ trong lớp [búp bê, truyện tranh, nhạc cụ, …].

– Thiết bị, đồ chơi ngoài trời : xích đ8u, cầu trượt, bậnp bênh, thùng, các dạng đu quay, …

– Phấn.

Ví dụ gợi ý : Kế hoạch hoạt động chơi – Chủ đề “Gia đình”

Các thời điểm và các trò chơi Không gian Thiết bị và nguyên vật liệu
– Đón – trả về : Trẻ chơi theo ý thích.

+ Chơi, hoạt động ở các góc

+ Góc chơi đóng vai : Góc gia đình : “Cửa hàng thực phẩm” : + + Góc chơi bác sĩ” : “Bác sĩ nha khoa”.

+ Góc tạo hình : “Sản xuất đồ dùng gia đình” [bàn, ghế, tủ].

Góc xây dựng , lắp ghép : “Xây dựng ngôi nhà của gia đình bé”.

+ Góc khám phá khoa học : chơi với phần mềm vi tính Edmark ; Trò chơi học tập :Gia đình tôi cần những đồ dùng gì ?.

+ Góc âm nhạc : Hát mừng mẹ.

– Chơi, hoạt động ngoài trời

+ Trò chơi vận động : “Dê mẹ tìm Dê con”, “Giúp mẹ việc nhà”, “Về đúng nhà”.

+ Chơi với các vật liệu thiên nhiên : “Gấp bản ghế”, “Xếp dán ngôi nhà của bé bằng lá”.

+ Trò chơi dân gian : “Dệt vải”, “Trồng đầu trồng cà”.

– Bố trí khoảng không gian cho các góc chơi khác nhau.

– Ví dụ : Khu vực chơi đóng vai có thể là góc trong phòng để làm “ngôi nhà” hay “căn phòng”, Bố trí không gian phù hợp cho góc chơi nấu ăn, bán hàng, góc chơi bác sĩ nha khoa.

– Chuẩn bị các khối, hộp to nhỏ khác nhau [có thể làm tủ, giá, bàn, ghế, …].

– Giường, chăn, gối.

– Búp bê các loại và trò chơi nấu ăn.

– Các loại thực phẩm, hoa quả, …

– Điện thoại, đồ dùng gia đình.

– Đồ dùng, dụng cụ đồ chơi bác sĩ, …

II – TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG HỌC

Hoạt động học là một trong ba hoạt động cơ bản trong trường, lớp mẫu giáo. Hoạt động học được giáo viên tổ chức, hướng dẫn để thực hiện nội dung giáo dục trong chương trình giáo dục mầm non, ngôn ngữ, tình cảm – xã hội và thẩm mĩ.

Xuất phát từ đặc điểm nhận thức và hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo là hoạt động chơi, nên việc học của trẻ ở lừa tưổi này được tổ chức với những hình thức sau đây :

– Học tự nhiên qua chơi, qua thực hiện hoạt động sinh hoạt hằng ngày.

– Học có chủ định dưới sự định hướng và hướng dẫn trực tiếp của giáo viên.

  1. Học tự nhiên qua chơi, qua thực hiện hoạt động sinh hoạt hằng ngày

– Với hình thức này, việc học của trẻ được thực hiện một cách ngẫu nhiên. Trẻ tự tiếp thu kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm sống một cách thiên nhiên vào các trò chơi khác nhau ở ngoài trời, dạo chơi ; tham gia, tiếp xúc với môi trường thiên nhiên, môi trường con người, tham gia vào các lễ hội gần gũi trong trong trường mầm non và gia đình ; các hoạt động sinh hoạt hằng ngày.

– Những điều trẻ tiếp thu được ở hình thức này còn rời rạc, chưa hệ thống và có chỗ chưa chính xác.

– Giáo viên là người tạo cơ hội, tổ chức môi trường, tạo điều kiện phù hợp và thuận lợi, khuyến khích trẻ tích cực tham gia vào hoạt động theo ý thích để nhận thức và phát triển.

– Việc hướng dẫn tổ chức cho trẻ học với hình thức trên được thể hiện trong các phần hướng dẫn : hướng dẫn tổ chức hoạt động vui chơi ; tổ chức môi trường hoạt động ở các góc ; tổ chức ngày hội, ngày lễ ; hoạt động lao động ; hoạt động tổ chức hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh … của trẻ theo độ tuổi.

  1. Học có chủ định dưới sự định hướng và hướng dẫn trực tiếp của giáo viên

Với hình thức hoạt động này, trẻ học, tiếp thu nội dung, kiến thức, kĩ năng, những hiểu biết dưới sự hướng dẫn và dạy trực tiếp của giáo viên. Nội dung học được cung cấp đến trẻ một cách có mục đích, có hệ thống và được tổ chức theo hướng tích hợp với trình tự đã được dự kiến trong kế hoạch giáo dục, phù hợp với các lĩnh vực nội dung giáo dục, phương pháp dạy học đã quy định trong chương trình. Mục đích tổ chức hoạt động nhằm :

– Cung cấp đến trẻ những nội dung mang tính toàn diện và những kiến thức, kĩ năng mới.

– Giúp trẻ cũng cố, hệ thống hóa, chính xác hóa những kiến thức, kĩ năng mà trẻ đã biết, đã tiếp thu ngẫu nhiên trong quá trình chơi, trong khi tham gia vào các hoạt động khác trong ngày.

– Chuẩn bị cho trẻ những yếu tố cần thiết để tham gia vào các hoạt động khác trong ngày.

– Chuẩn bị cho trẻ những yếu tố cần thíết để tham gia vào hoạt động học tập giai đoạn sau này.

Trong chương trình giáo dục mầm non, hoạt động học quy định trong thời gian biểu lớp mẫu giáo lớn là hình thức học có chủ định : Giáo viên là người trực tiếp đặt nhiệm vụ nhận thức thông qua tình huống chơi, trực tiếp hướng dẫn và tổ chức hoạt động của trẻ theo quy định và phương pháp phù hợp với độ tuổi, chủ yếu “học bằng chơi” – Trẻ là chủ thể tích cực, chủ động tham gia vào hoạt động để giải quyết nhiệm vụ nhận thức đặt ra.

Trong chương trình giáo dục mầm non, hoạt động học là một trong ngững hoạt động cơ bản thực hiện về tổ chức nội dung giáo dục theo hướng tích hợp và tác động đến trẻ một cách toàn diện.

– Hoạt động học quy định trong chế độ sinh hoạt hằng ngày của lớp mẫu giáo lớn là hình thức hoạt động học có chủ định : Giáo viên là người trực tiếp hướng dẫn và tổ chức hoạt động học, đặt nhiệm vụ nhận thức cho trẻ thông qua tình huống chơi theo quy trình và phương pháp phù hợp với độ tuổi. Trẻ là chủ thể, chủ động tham gia tích cực vào hoạt động để giải quyết nhiệm vụ nhận thức đặt ra của cô giáo. Với mẫu giáo lớn, học có chủ định được tổ chức nhấn mạnh “học qua hành”, việc vận dụng phương pháp trò chơi vẫn là phương pháp có hiệu quả ở lứa tuổi này.

– Nội dung học không cung cấp đến trẻ một cách đơn lẻ theo từng “môn” học riêng. Nội dung học được tổ chức theo hướng tích hợp thông qua các lĩnh vực nội dung hoạt động cụ thể như hoạt động : vận động ; khám phá khoa học tự nhiên – xã hội ; làm qun với toán ; nghe kể chuyện/ đọc thơ/ kể chuyện sáng tạo/ làm quen với đọc, viết ; hoạt động tạo hình [vẽ/ nặn/ xé/ dán/ chắp ghép, xếp hình] ; hoạt động âm nhạc thuộc các lĩnh vực giáo dục : phát triển vận động ; phát triển ngôn ngữ ; phát triển nhận thức ; phát triển tình cảm – xã hội và phát triển thẩm mĩ.

– Nội dung học thường gắn với chủ đề hoặc gắn với sự kiện  nào đó gần gũi với trẻ.

Ở lứa tuổi mẫu giáo lớn, trên cơ sở mạng hoạt động và hệ thống các khái niệm liên quan đến chủ đề, giáo viên có thể lên lịch hoạt động học trong thời gian biểu [hoạt động học có chủ định] hằng ngày với các lĩnh vực hoạt động cụ thể trên. Nội dung của hoạt động học được tổ chức thực hiện theo hướng tích hợp với sự lồng ghép, đan cài nội dung hoạt động trọng tâm với nội dung của các lĩnh vực hoạt động khác phù hợp, tạo điều kiện cho trẻ khám phá chủ đề với nhiều cách khác nhau. Nhờ đó, trẻ lĩnh hội những hiểu biết, kĩ năng và kinh nghiệm sống liên quan đến chủ đề trong một chỉnh thể và đồng bộ trên các mặt : thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm – xã hội và thẩm mĩ.

– Ví dụ : Cô có thể sắp xếp hoạt động học [học chủ định] trong thời gian biểu hằng ngày, để khám phá chủ đề nhánh “Một số nghề phổ biến quen thuộc” và cung cấp một số khái niệm cần thíết liên quan đến chủ đề theo hướng tích hợp trong một tuần với các lĩnh vực hoạt động trọng tâm như sau :

  + Trò chuyện và thảo luận, phân biệt một số nghề phổ biến ở địa phương [qua công việc, công cụ, ích lợi sản phẩm của các nghề khác nhau] ; trong xã hội có nhiều nghề khác nhau, mỗi nghề có những công việc với những đặc trưng riêng nhưng đều có ích cho xã hội ; cần tôn trọng và yêu quý những người lao động.

  + Kể chuyện theo tranh “Bác sĩ nha khoa” hoặc “Chú bộ đội” [sử dụng các từ phù hợp, mô tả kể về công việc của một số nghề quen thuộc qua tranh], cần thể hiện tình cảm với những người làm nghề đó.

  + Tạo hình : Vẽ “cô giáo” của chúng cháu.

  + Hát và vận động theo nhạc bài hát “Bông hoa mừng cô” hoặc “Cháu thương chú bộ đội” [thể hiện cảm xúc qua những nhịp điệu lời ca của bài hát và thể hiện tình cảm yêu quý những người làm nghề dạy học/ bộ đội”].

  + Làm quen với toán : “Hãy đoán xem có bao nhiêu chú bộ đội” [nhận biết số lượng, chữ số trong phạm vi 7 và phân nhóm dụng cụ làm việc theo nghề, tìm dấu hiệu chung].

  + Hoạt động phát triển vận động : “Tập làm lính cứu hỏa” [tập các động tác trẻo lên, trẻo xuống, bò qua vòng một cách khéo léo, thể hiện tình cảm với những người làm nghề cứu hỏa].

– Khi tổ chức thực hiện hoạt động học có chủ định ở lớp mẫu giáo lớn, cô giáo có thể tiến hành với một nội dung trọng tâm và tích hợp với 2 hoặc 3 nội dung của lĩnh vực hoạt động khác có tính chất củng cố, bổ trợ, phù hợp với nội dung trọng tâm, nhằm tác động đến trẻ một cách toàn diện trên các mặt : thể chất, trí tuệ, tình cảm – xã hội và thẩm mĩ. Mức độ nội dung của hoạt động có độ khó vừa đủ, phù hợp với độ tuổi.

– Những nội dung tích hợp, có tình cảm bổ trợ cho nội dung trọng tâm thường là những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm mà trẻ đã có, đã biết. Những nội dung này cần được tiếp tục củng cố luyện tập và giúp cho việc nắm bắt nội dung trọng tâm một cách thuận lợi dưới những hình thức hoạt động khác.

– Khi tiến hành hoạt động, tùy theo từng trường hợp cụ thể, những nội dung trong từng lĩnh vực giáo dục có thể tích hợp vớ nhau hay nội dung của hoạt động trọng tâm có thể tích hợp với nội dung khác như :

Khi tiến hành hoạt động học có chủ định, tùy theo từng trường hợp cụ thể, một số nội dung trong cùng một lĩnh vực giáo dục có thể tích hợp với nhau. Ví dụ : Trong lĩnh vực phát triển nhận thức, nội dung của hoạt động khám phá về thiên nhiên có thể tích hợp với một số nội dung làm quen với toán hoặc tìm hiểu về mặt xã hội.

Hay nội dung của hoạt động trọng tâm của lĩnh vực hoạt động này có thể tích hợp với nội dung của lĩnh vực hoạt động khác có liên quan, bổ trợ làm sâu sắc thêm nội dung trọng tâm. Ví dụ : Những nội dung của hoạt động phát triển nhận thức có thể tích hợp phù hợp với một số nội dung của hoạt động phát triển ngôn ngữ, hoạt động tạo hình, hoạt động âm nhạc v.v… tạo điều kiện cho trẻ tiếp thu nội dung bằng nhiều cách khác nhau.

– Với trẻ lớp mẫu giáo lớn không nên tích hợp quá nhiều lĩnh vực nội dung hoặc đưa nhiều kiến thức mới vào cùng một lúc. Ngược lại, cũng không nên chỉ tổ chức quá thiên về ôn luyện những kiến thức, kĩ năng cũ làm cho hoạt động lặp đi lặp lại nhiều lần, đơn điệu, gây nhàm chán và làm trẻ mệt mỏi.

Trong quá trình tổ chức hoạt động có chủ định của trẻ cô cần chú ý sử dụng các phương pháp dạy học tích cực trên cơ sở :

– Tạo cơ hội cho trẻ phát huy tính tích cực hoạt động để nhận thức. : nên chú ý tổ chức cho trẻ trải nghiệm, sử dụng các giác quan, phán đoán, trao đổi và nêu ý kiến riêng, …

– Hệ thống các câu hỏi đưa ra cần mang tính gợi mở nhằm kích thích trẻ suy nghĩ và bày tỏ ý tuởng của mình. Cô nên lưu ý đến những trẻ cần sự quan tâm đặc biệt để đưa ra câu hỏi phù hợp với khả năng của trẻ.

– Tạo nhiều cơ hổi tốt hơn cho trẻ được làm việc, hoạt động theo nhóm nhỏ và thực hành cá nhân. Không nên làm thay, nói thay trẻ mà hướng dẫn, gợi mở, khuyến khích tất cả trẻ cùng được nói, bày tỏ ý kiến cá nhân và tham gia hoạt động tích cực để giải quyết nhiệm vụ.

– Sau mỗi hoạt động cô cần ghi chép, đánh giá tổng thể việc học của trẻ, trên cơ sở đó rút kinh nghiệm và lên kế hoạch điều chỉnh nội dung, phương pháp thích hợp cho hoạt động tiếp theo.

– Trong trường hợp thời gian hoạt động đã kết thúc mà vẫn có trẻ chưa hoàn thành nhiệm vụ, hoặc tẻ vẫn còn hứng thú, cô giáo có thể gợi ý để trẻ tiếp tục hoàn thiện nốt công việc đó vào thời điểm chơi và hoạt động tiếp theo nếu trẻ thích.

  1. b] Một số gợi ý và tiến hành hoạt động

– Tên hoạt động.

– Mục đích, yêu cầu : Nêu yêu cầu mà trẻ cần nắm được qua hoạt động này.

– Chuẩn bị : Đồ dùng, đồ chơi, không gian, chỗ ngồi, …

– Các bước tiến hành và phương pháp.

  + Tạo động cơ học qua tình huống chơi hoặc cái “cớ” phù hợp mà trẻ quan tâm, thích thú, gây sự  chú ý, hứng thú của trẻ vào quá trình hoạt động.

  + Đặt nhiệm vụ nhận thức cho trẻ có thể với hình thức giao nhiệm vụ trực tiếp hoặc, dưới hình thức nêu vấn đề gắn với tình huống chơi hay nhiệm vụ chơi, …

  + Vận dụng và phù hợp các phương pháp dạy và học hợp lí, hướng dẫn trẻ tham gia vào hoạt động và giáu quyết nhiệm vụ : Trẻ tham gia giải quyết nhiệm vụ nhận thức theo trình tự phù hợp từ dễ đến khó. Ở tuổi mẫu giáo lớn. Tổ chức hoạt động theo cách thức “học bằng chơi” và “học qua hành” vẫn là cách thức phù hợp với trẻ. Cuối độ tuổi nên cho trẻ làm quen dần với việc giao nhiệm vụ nhận thức một cách trực tiếp.

      + Khi phối hợp các phương pháp tổ chức hoạt động học của trẻ, giáo viên cần chú ý :

  • Tổ chức và khuyến khích trẻ phát hiện các vấn đề đặt ra thông qua trải nghiệm bằng các giác quan, đồng thời kết hợp trò chuyệ, đàm thoại với hệ thống câu hỏi, lời giải thích hoặc làm mẫu phù hợp. Trên cơ sở giúp trẻ quan sát, so sánh, trả lời theo ý kiến riếng và suy nghĩ cách thực hiện, giải quyết nhiệm vụ với cách khác nhau.
  • Trẻ thực hành cá nhân hoặc làm việc theo nhóm và luyện tập. Đối với nội dung tích hợp mang tính chất bổ trợ và củng cố, có thể sử dụng trò chơi phù hợp, tạo điều kiện cho trẻ được luyện tập, vận dụng những gì đã biết vào tình huống mới qua hình thức hoạt động khác phù hợp.
  • Đánh giá và kết thúc : Thông qua động cơ của hoạt động, cô gợi mở để khuyến khích trẻ tự nhận xét và hướng trẻ quan tâm đến kết quả của mình và của bạn trong quá trình hoạt động. Kết thúc và chuyển sang hoạt động khác, có thể cũng hát một bài hát phù hợp hoặc chơi một trò chơi nhẹ nhàng vui vẻ.

Ví dụ gợi ý về tổ chức hoạt động học có chủ định

Hoạt động phát triển vận động cơ bản là nội dung trọng tâm.

Nội dung tích hợp và bổ trợ [thuộc chủ đề “Nghề nghiệp”] : Nắm được một số phẩm chất cần thiết của nghề “lính cứu hỏa”, phân loại các dụng cụ theo một số nghề và đếm.

Hoạt động : “Cháu tập làm lính cứu hỏa”

Mục đích – yêu cầu : Trẻ thực hiện được động tác trèo lên, trèo xuống bậc thang không cần vịn, bò qua vòng và vượt qua chướng ngại vật một cách khéo léo ; thể hiện tình cảm của bản thân với những người làm nghề cứu hỏa, phòng cháy chữa cháy [công an  phòng cháy chữa cháy].

Chuẩn bị

– Tranh vẽ về lính cứu hỏa : thang leo lên leo xuống hoặc bậc gỗ ; vòng cung có đường cao để trẻ tập bò, chui, …

– Tranh lô tô biểu thị các nghề : Bác sĩ, nông nghiệp, cứu hỏa, phòng cháy chữa cháy, …

– Chuẩn bị không gian, bố trí thời gian hợp lí để tập luyện từng động tác vận động.

Tiến hành

Sử dụng và phối hợp các phương pháp để tổ chức hoạt động luyện tập vận động phù hợp với đặc điểm của hoạt động :

– Tạo động cơ học thông qua động cơ luyện tập để trờ thành “lính cứu hỏa“ : Cho trẻ đúng xung quanh, có hướng sự chú ý, hứng thú, của trẻ qua tranh vẽ về chú “lính cứu hỏa”. Trò chuyện với trẻ về phẩm chất của lính hỏa, những công việc của lính cứu hỏa, … Trẻ hứng thú với hoạt động, luyện tập vận động thông qua động cơ luyện tập để trở thành “lính cứu hỏa, phòng cháy chữa cháy”.

– Tiến hành hoạt động [nội dung trọng tâm] : Tập vận động mới : leo lên bậc, trèo xuống bậc thang ; cũng cố luyện tập vận động ; bò chui qua [20 – 25 phút].

  + Khởi động [2 phút] : Cho trẻ tập làm – “lính cứu hỏa”, bước đi thường phối hợp vung tay đều và chạy chậm một vòng thành vòng tròn.

       + Trọng động [17 – 20 phút] :

  • Bài tập phát triển chung : Dàn thành 4 hàng ngang, triển khai thành đội hình “lính cứu hỏa” theo tổ [tiểu đội] để tập [sử dụng một số động tác phát triển các nhóm cơ, hô hấp [với dụng cụ] trong bài tập thể dục sáng].
  • Chia đội hình “lính cứu hỏa” thành các nhóm phù hợp để có thể luân phiên thực hành [tập] các vận động động tác [trèo lên và trèo xuống bậc thang, vượt chướng ngại vật và bò qua vòng]

  + Hướng dẫn tập vận động mới : [trèo lên, xuống nhà cao tầng] : Cô làm  mẫu, minh họa từng hành động kết hợp kết hợp vói lời hướng dẫn động tác rõ ràng, cụ thể, hướng trẻ tập trung, chú ý, quan sát hành động mẫu. Sau đó, cho một vài trẻ tự thực hành [tập] động tác vận động mới và phối hợp luyện tập động tác vận động cũ bò qua vòng và vượt chướng ngại vật [nhảy qua vật cản]. Mỗi trẻ được thực hành ít nhất 3 lần. Cô chú ý quan sát trẻ khi trẻ thực hiện các động tác mới để có những hướng dẫn phù hợp.

  + Trò chơi [3 – 4 phút] : “Chọn đúng đồ dùng cho nghề của mình”, nội dung trò chơi nhằm củng cố kĩ năng vận động chạy và kết hợp với phân loại được dụng cụ, phương tiện phục vụ cho nghề “cứu hỏa, phòng cháy chữa cháy”, “bác sĩ”, “nghề nông”.

Cách chơi : Cô phát cho mỗi trẻ 1 lô tô về những dụng cụ, phương tiện của các nghề trên, đủ cho mỗi cháu 1 thứ dụng cụ. Cô vẽ chuẩn bị trước 3 vòng tròn mỗi vòng có hình ảnh biểu thị về các nghề trên. Lô tô biểu thị các nghề được để ở vòng tròn giữa lớp. Khi có hiệu lệnh, mỗi trẻ chạy nhanh chọ 1 lô tô [nghề nào đó] và chạy tự do trong lớp cho đến khi hiệu lệnh kết thúc, trẻ phải về đúng vòng tròn tương ứng với lô tô chỉ nghề mà trẻ có. Cô chỉ vào nhóm nào, nhóm đó phải nó đúng tên nghề của nhóm mình : “Chúng tôi làm nghề …”. Có thể cho trẻ đếm và so sánh xem nhóm nghề nào có nhiều người hơn, ít người hơn. Cho trẻ chơi 2 – 3 lần.

Hồi tĩnh : Cho trẻ đi thành vòng tròn và phối hợp vung tay nhịp nhàng kết hợp với bài hát phù hợp.

– Nhận xét và đánh giá : Thông qua động cơ trở thành “lính cứu hỏa, chú công an phòng cháy chữa cháy”, cho trẻ tự nhận xét đánh giá về việc thực hiện và luyện tập [đã giống lính cứu hỏa phòng cháy, chữa cháy chưa và giống như thế nào ; nhận xét về phẩm chất người lính cứu hỏa, …] và đưa ra những lời động viên khuyến khích.

III – HƯỚNG DẪN TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG LAO ĐỘNG

– Hoạt động đối với lứa tuổi mẫu giáo không nhằm mục đích tạo ra sản phẩm vật chất mà được sử dụng như một phương tiện giáo dục toàn diện cho trẻ về các mặt : thể chất, tình cảm, nhận thức, thẩm mĩ, rèn luyện cho trẻ một số kĩ năng lao động tự phục vụ và lao động trực nhật, thì hình thức lao động tập thể là rất quan trọng nhằm hình thành một số phẩm chất nhân cách ở trẻ.

– Các hình thức lao động có thể tổ chức lồng ghép tự nhiên trong thời gian thực hiện các chủ đề khác nhau [“Bản thân”, “Gia đình”, “Trường mầm non”, “Thế giới thực vật”, “Thế giới động vật” …] và được tiến hành vào các thời điểm thích hợp : buổi sáng trong giờ đón trẻ : khi giáo viên cùng trẻ trò chuyện về hoạt động trong ngày ; hoạt động học có chủ định ; hoạt động góc ; hoạt động ngoài trời ; trước và sau các bữa ăn ; hoạt động chiều.

– Trong khi lập kế hoạch của chủ đề, kế hoạch tuần, giáo viên cần phải đưa vào các hoạt động lao động phù hợp. Ví dụ : Đối với trẻ mẫu giáo lớn, khi thực hiện các chủ đề “Bản thân”, “Gia đình”, “Trường mầm non”, giáo viên cần phải chú trọng tổ chức hoạt động lao động tập thể nhằm hình thành ở trẻ tinh thần trách nhiệm, biết hợp tác với bạn thực hiện công việc đến cùng.

– Khi đánh giá sau chủ đề, giáo viên phải có phần nhận xét về các hoạt động đã được tổ chức : những gì đã thực hiện được, còn tồn tại gì, có gì cần rút kinh nghiệm, hướng giải quyết như thế nào. Giáo viên cũng có thể ghi nhận xét cuối ngày nếu thấy cần, tuy nhiên cần ghi thật cụ thể, ngắn gọnvà thiết thực.

– Để củng cố kĩ năng và thói quen lao động ở trẻ mẫu giáo lớn, hằng ngày / tuần, cô chú ý phân công trực nhật của từng ngày treo trước lúc đón trẻ, được trang trí đẹp, có gắn kí hiệu của từng trẻ và được treo ở nơi trẻ dễ nhìn thấy.

– Khi hướng dẫn hoạt động lao động ở lớp mẫu giáo lớn, cô giáo cần lưu ý :

  + Thu hút trẻ hoạt động bằng các hình thức khác nhau [trò chơi, xem tranh, …].

  + Đối với những thao tác  quen thuộc, cô giáo cần gợi ý để trẻ kể về công việc gồm những việc gì, cần những dụng  cụ gì và sẽ làm như thế nào. Khi trẻ thực hiện, cô để trẻ tự làm, cô chỉ nên theo dõi, quan sát trẻ và góp ý khi cần thíết. Cần tạo điều kiện cho trẻ tự giác tham gia và chuẩn bị phương tiện, đồ dùng, học liệu phục vụ cho hoạt động, tăng cường tính tự lực của trẻ.

  + Đối với những thao tác mới, cô dùng lời nói ngắn gọn, rõ ràng giải thích cho trẻ các thao tác, gợi ý dẫn dắt trẻ thực hiện. Nếu trẻ gặp khó khăn, cô không vội giúp đỡ ngay, mà khuyến khích trẻ giải quyết một cách độc lập . Trong trường hợp trẻ đỡ nghe, mà khuyến khích trẻ giải quyết công việc.

  + Cô giáo có thể khen ngợi những trẻ thực hiện các thao tác đúng, khuyến khích các trẻ khác quan sát bắt chước thao tác đúng của bạn.

  + Khi kết thúc lao động : Cô gợi ý để trẻ nhận xét về kết quả công việc của mình và nhận xét công việc của bạn, cùng nhau thảo luận về cách sửa chữa những sai sót [nếu có]. Cho trẻ nhận xét về càm nghĩ của bạn thân sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chú ý đến sự hợp tác của các bạn trong nhóm, lớp.

– Ở trẻ mẫu giáo lớn, một số kĩ năng tự phục vụ đã trở thành thói quen [đánh răng, rửa mặt, rửa tay ; sử dụng một số dụng cụ trong sinh hoạt như khăn mặt, ca cốc, giày dép, bàn chải đánh răng, …]. Tuy nhiên, người lớn cần phải luôn tạo điều kiện cho trẻ củng cố những kinh nghiệm này. Đồng thời, hình thành ở trẻ kĩ năng tự kiểm tra mình : thực hiện các thao tác có đúng quy trình không, có cẩn thận và gọn gàng không, … Hình thành ở trẻ hứng thú và ý thức luôn giữ gìn vệ sinh cá nhân.

– Khi trẻ thực hiện các thao tác, cô giáo cần quan sát và gợi ý để trẻ tự mình tìm ra được những sai sót và có thể sửa chữa những sai sót của mình : “Con có biết vì sao chỗ bồn rửa nước lại tung tóe như thế nào không ?”, “Khi rửa ta phải vặn vòi nước như thế nào để nước không bắn ra ngoài nhỉ”, …

– Thói quen tự phục vụ được củng cố trong các thời điểm sinh hoạt hằng ngày của trẻ ở trường, đồng thời cô giáo nhắc nhở phụ huynh luôn tạo điều kiện cho trẻ thực hiện ở nhà một cách độc lập.

– Đối với lứa tuổi mẫu giáo lớn, chế độ trực nhật được tiếp tục thực hiện, nhưng nội dung lao động và hình thức tập hợp trẻ đa dạng hơn, yêu cầu trẻ có tính độc lập cao hơn.

– Thông qua lao động trực nhật có thể rèn luyện ở trẻ kĩ năng tổ chức công việc của mình và công việc chung, biết chuẩn bị và biết thu dọn dụng cụ sau khi làm việc [lau chuì sạch sẽ, để đúng nơi quy định] ; hình thành tinh thần tự giác và ý thức trách nhiệm đối với công việc ; nguyện vọng làm việc vì lợi ích tập thể, thói quen hoàn thành công việc của mình.

– Trẻ mẫu giáo lớn ngoài trực nhật bữa ăn, chuẩn bị giờ học, còn có hình thức trực nhật góc thiên nhiên với thời gian dài : mỗi nhóm có từ 3 – 4 trẻ và thực hiện các nhiệm vụ lao động thời gian dài hơn các lứa tuổi trước [từ 3 đến 4, 5 ngày]. Ngoài ra, còn có thể có những nhiệm vụ các nhân như chăm sóc động vật, cây cối kéo dài từ 1 – 2 tuần. Điều này cho phép trẻ quan sát quá trình phát triển, sinh trưởng của một loại cây/ con nào đó, trẻ sẽ có thêm nhiều kiến thức, kĩ năng hơn.

Ví dụ : Trong thời gian thực hiện chủ đề “Thế giới thực vật”, “Thế giới động vật”, trẻ chăm sóc cây cối vào đầu giờ buổi sáng hoặc vào các thời điểm phù hợp, cô giải thích những đối tượng có trong góc thiên nhiên, cách chăm sóc cây con và nhấn mạnh đến sự cần thíết phải thường xuyên chăm sóc cẩn thận súc vật và cây cối, cách phun nước cho cây, cách lau lá cây, bắt sâu cho cây, cho cá ăn, …

– Cô giáo cần gợi ý để trẻ tự lập kế hoạch thực hiện nhiệm vụ lao động bằng cách đặt cho trẻ những câu hỏi gợi ý : “Hãy suy nghĩ xem con sẽ làm như thế nào ? Con bắt đầu làm gì ? Lúc đầu con sẽ dùng dụng cụ nào ? Con cần những vật liệu gì ?”, …

– Để củng cố các kĩ năng cho trẻ, giáo viên có thể dùng các hình thức khác nhau để kích thích hứng thú của trẻ : kể chuyện, đọc thơ, xem tranh, … hoặc lao động ở vườn cây trong lúc cô cho đi dạo ngoài trời, … Đồng thời, cô cần thường xuyên nhắc nhở cha mẹ tạo điều kiện cho trẻ thực hiện nhiệm vụ lao động ở nhà như chăm sóc cây cối trong vườn, sắp xếp đồ dùng, đồ chơi của trẻ, …

– Trẻ mẫu giáo lớn có thể tự thỏa thuận để phân công việc cho nhau trong nhóm, biết  phối hợp công việc của mình với công việc của bạn, cùng chịu trách nhiệm về kết quả công việc, vì vậy việc tập hợp trẻ để lao động chung được tổ chức thường xuyên hơn.

– Cô giáo gợi ý để trẻ tự thỏa thuận và phân công việc cho nhau trong nhóm. Cô giáo cần ủng hộ thiện cảm lẫn nhau của trẻ, giao thông cho trẻ cùng làm việc với nhau, tạo mối quan hệ tốt đẹp với các bạn trong quá trình lao động ; đồng thời cô gợi ý cho trẻ tự mình tìm ra được những sai sót và có thể sửa chữa những sai sót của mình, nhận xét và góp ý kiến về công việc của bạn.

– Để củng cố kĩ năng lao động tập thể ở trẻ mẫu giáo lớn, có thể cho trẻ làm quen với nhiều hình thức lao động của nhân viên nhà trường, của các cô giáo và tham gia vừa sức vào những hoạt động này : sửa chữa, dán lại sách ; chăm sóc cây trong vườn ; gieo hạt, … Thông qua lao động chung với giáo viên [người lớn] mà trẻ hiểu thêm được một số quy tắc ứng xử, cách  phối hợp với người khác trong khi làm việc, sự cố gắng thực hiện công việc chung.

Gợi ý hướng dẫn hoạt động lao động tập thể

Trang trí lớp học nhân ngày lễ 8 – 3

Mục đích : Giáo dục trẻ biết quan tâm đến người thân [mẹ, cô giáo và các bạn gái], biết hợp tác với bạn hoàn thành công việc đến cùng, phát triển khả năng sáng tạo, óc thẩm mĩ ở trẻ.

Địa điểm : Trong lớp, buổi chiều, trước ngày lễ 2 – 3 ngày.

Chuẩn bị : Trong kế hoạch tuần trước ngày lễ, có cần hướng dẫn trẻ chuẩn bị dán các chủ đề trang trí cắt, xếp hoa, dính dắc : vẽ, xé dán các hình con người, con vật, tranh phù hợp chủ đề ngày hội, …]

Chuẩn bị : Trong kế hoạch tuần trước ngày lễ, cô cần hướng dẫn trẻ chuẩn bị dán các thứ để trang trí [cắt, xếp hoa, dính dắc : vẽ, xé dán các hình con người, con vật, tranh phù hợp chủ đề ngày hội, …]

Tiến hành

– Buổi sáng trong giờ hoạt động chung, cô có thể đọc truyện hoặc cho trẻ xem bức tranh về ngày lễ 8 – 3, hoặc gợi ý để trẻ kể về ngày lễ, sau đó cô và trẻ cùng thống nhất, buổi chiều sau khi ngủ dậy sẽ cùng nhau trang trí lớp học để đón chào ngày lễ. Buổi chiều, cô gợi ý cho trẻ tự nhận công việc theo nhóm, trẻ cùng nhau bàn bạc cử nhóm, trẻ cùng nhau bàn bạc cử nhóm trưởng [nếu căn] và phân công trong nhóm, liệt kê các công việc sẽ phải hoàn thành [lưu ý để trẻ phân công phù hợp số lượng trẻ mỗi nhóm và với khả năng của trẻ], lựa chọn dụng cụ, vật liệu cần thíết cho công việc.

– Trong khi trẻ lao động, cô quan sát, gợi ý cho trẻ nếu cần, nhắc nhở trẻ chú ý giúp đỡ và phối hợp với nhau khi làm việc. Sau khi trẻ làm xong, cô gợi ý trẻ quan sát và nói lên cảm nghĩ của mình về quang cảnh lớp sau khi trang trí, cho trẻ thấy kết quả lao động là do tập thể cùng cố gắng làm việc  và các mẹ sẽ rất vui khi tới thăm lớp nhân dịp ngày lễ. Nếu gương và nhắc nhở trẻ nếu cần.

– Hoạt động tiếp theo : Nếu hết buổi chiều mà trẻ chưa hoàn thành phần việc nào đó, cô gợi ý để trẻ hoàn thành vào buổi chiều hôm sau, hoặc thực hiện ý tưởng mới của mình [nếu có] tiếp tục trang trí, giữ gìn lớp học đón chào ngày lễ. Trong các giờ thủ công tiếp theo, cô có thể gợi ý trẻ vẽ hoặc xé dần tranh miêu tả quang cảnh lớp trong ngày lễ.

Đối với trẻ khuyết tật, giáo viên không đặt mục đích hình thành ở trẻ những kĩ năng lao động phức tạp, mà chỉ tạo cơ hội cho trẻ cùng được tham gia, được tự trải nghiệm, nhằm hình thành ở trẻ một số kĩ năng tự phục vụ, tính tự tin, khả năng độc lập [ở mức độ có thể], một số hành vi văn hóa [biết chào mời], lôi cuốn trẻ tham gia vào quá trình lao động càng nhiều càng tốt. Khi phân công lao động chung, giáo viên có thể gợi ý để trẻ khuyến khích các trẻ khác chú ý giúp dỡ, chỉ dẫn cho trẻ khuyết tật , tuy nhiên không nên đòi hỏi nhiều ở trẻ.

IV – HƯỚNG DẪN TỔ CHỨC NGÀY HỘI, NGÀY LỄ

Tổ chức ngày hội ngày lễ là hình thức giúp trẻ thâm nhập vào cuộc sống xã hội tại những thời điểm có ý nghĩa xã hội nhất để giáo dục truyền thống, đem lại niềm vui sướng cho trẻ, góp phần giáo dục toàn diện cho trẻ.

  1. Một số ngày hội, ngày lễ thường được tổ chức ở trường mầm non

Tại các trường/ lớp mầm non, tuỳ điều kiện cụ thể của mình, có thể lựa chọn để tổ chức các ngày lễ, ngày hội sau : Ngày hội đến trường [ngày khai trương], Tết Trung thu, Tết Nguyên đán, ngày 8 – 3, ngày 20 – 11, ngày suy nghĩ Bác 19 – 5, ngày suy nghĩ của bé, ngày 1 – 6 và lễ ra trường cần tổ chức long trọng, tạo ra một quanh cảnh vui tươi, phấn khởi, làm cho trẻ háo hức, vui sướng tham gia một cách hào hứng chào đón các bạn mới [trẻ 3 tuổi] và trường.

– Tết trung thu : Là ngày dành riêng cho các cháu thiếu niên, nhi đồng. Tết Trung thu tổ chức vào ngày rằm tháng tám. Có thể giới thiệu cho trẻ về thời tiết mùa thu, về trăng, cây cỏ, các loại hoa quả, trang phục của mọi người, … Tổ chức chương trình cần chú ý đến các hoạt động : bày cỗ, rước đèn, phá cổ, hát múa dân gian, …

– Ngày hội của các cô giáo [20 – 11]  : Giáo dục truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc Việt Nam. Giới thiệu các công việc của các cô giáo, chú ý giáo dục tình cảm mến yêu, biết ơn của trẻ với cô giáo. Để tổ chức ngày này, cần chuẩn bị sớm, trong các giờ học nghệ thuật, các buổi hoạt động ngoài giờ, tổ chức cho trẻ làm những vật phẩm tặng cô, học các bài hát, bài thơ, vẽ tranh, kể chuyện về cô giáo [về bố mẹ nếu là giáo viên].

– Tết nguyên đán : Là tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam. Cần tổ chức cho trẻ đón xuân, đón Tết năm mới với tâm trạng vui mừng. Giới thiệu cho trẻ những phong tục tập quán tốt đẹp trong ngày Tết : chúc tết bố mẹ, con cái, người thân, thầy cô giáo ; tổ chức sum họp, mừng thọ người cao tuổi ; mọi người mặc quần áo đẹp ; tổ chức các trò chơi gân gian ; thời tiết mùa xuân cây cối đâm hoa nẩy lộc, không khí trong lành, vui vẻ ; mỗi dân tộc có những tập quán, cách đón Tết khác nhau. Giáo dục ở trẻ tình yêu thiên nhiên và cuộc sống.

Tổ chức Tết Nguyên đán vào ngày cuối cùng trẻ ở trường, trước khi nghỉ Tết, tập trung vào chủ đề mùa xuân.

– Ngày Phụ nữ quốc tế [8 – 3]  : Tạo ra được quang cảnh chào mừng, phấn khởi và các hoạt động thiết thực đẻ trẻ nhận biết ngày 8 – 3 là ngày vui của phụ nữ. Thông qua việc tổ chức ngày lễ, giáo dục sự kính trọng, lòng biết ơn và tình cảm của trẻ với ba mẹ, cô giáo và tôn trọng các bạn gái.

– Kỉ niệm ngày sinh nhật Bác Hồ [19 – 5] : Tổ chức lễ kỉ niệm với hình thức sinh động, những tiết mục văn ngnệ, nghệ thuật có nội dung thiết thực. Giới thiệu về quê hương của Bác, về thủ đô Hà Nội, nơi Bác đã sống và làm việc. Giáo dục cho trẻ lòng biết ơn và lòng kính yêu Bác Hồ, tình cảm yêu mến thủ đô Hà Nội.

– Ngày 1 – 6, ngày hội của thiếu nhi và lễ ra trường của các cháu mẫu gío lớn : Tổ chức ngày 1 – 6 với nội dung giáo dục đoàn kế với các bạn thiếu nhi quốc tế. Nhân dịp này có thể tổ chức ngày ra trường của các cháu mẫu giáo lớn. Cần tổ chức nhẹ nhàng, ngắn gọn tạo cho trẻ một tâm trạng thoải mái, để lại cho trẻ những ấn tượng tốt đẹp, lưu luyến về trường/ lớp mầm non của mình.

– Ngày sinh nhật của trẻ trong lớp : Phối hợp với gia đình trẻ tổ chức vui vẻ, tuỳ điều kiện thực tế bằng những lời chúc tốt đẹp của cô giáo, bạn bè, những món quà đơn giản [có thể thực tế các trẻ tự làm], hoa quả, kẹo bánh, … tạo cho trẻ cảm nhận được niềm vui, sự trưởng thành, lớn lên của mình trong ngày sinh nhật và hình thành tinh thần trách nhiệm ở trẻ.

– Những ngày hội, ngày lễ khác [nếu có điều kiện]

  + Ngày 22 – 12, ngày  hội quốc phòng toàn dân.

  + Tết dương lịch.

  + Ngày 30 – 4, ngày giải phóng Miền Nam, đất nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất.

  + Ngày 1 – 5, ngày hội của những người lao động.

– Các ngày hội, ngày lễ truyền thống của địa phương [nếu có].

  1. Lựa chọn nội dung ngày hội, ngày lễ thực hiện các chủ đề

– Thực tế trong khi tiến hành các chủ đề, có thể có những ngày hội, ngày lễ nhưng nội dung phù hợp chủ đề, ngược lại cũng có thể có ngày hội, ngày lễ nhưng nội dung lại không phù hợp hoàn toàn với chủ đề. Vì vậy, tùy thuộc vào kế hoạch phân chia các chủ đề trong năm học của trường/ lớp mầm non vàt thời điểm diễn ra các ngày hội, ngày lễ mà giáo viên linh hoạt, sáng tạo tổ chức ngày hội, ngày lễ cho trẻ tham gia hoặc lựa chọn nội dung ngày hội, ngày lễ  để giới thiệu khi thực hiện chủ đề, và sử dụng các sản phẩm của trẻ grong quá trình triển khai thực hiện chủ đề để phục vụ cho ngày hội, ngày lễ. Riêng về tổ chức sinh nhật cho trẻ trong lớp : Tùy điều kiện thực tế của lớp, có thể tổ chức sinh nhật cho từng trẻ, cũng có thể tổ chức sinh nhật cùng một ngày cho những trẻ nào tro ng lớp có ngày sinh gần nhau, …

– Khi thực hiện các chủ đề, giáo viên cần chú trọng đến lễ hội của riêng địa phương mình đê có thể tổ chức hoặc lựa chọn nội dung phù hợp đưa vào các chủ đề.

Ví dụ : Trường mầm non Phù Đổng thuộc ngoại thành Hà Nội có ngày “Hội Gióng”. Đối với trẻ mẫu giáo lớn, giáo viên có thể cùng kể chuyện về Ông Gióng, tham quan Đền Gióng, cho trẻ trực tiếp tham dự ngày hội, trò chuyện về ngày hội, tổ chức cho trẻ vẽ, nặn, cắt, xé, dán, xếp hình [Đền Gióng, Ông Gióng, đô vật ngày hội, …]. Qua những hoạt động đó, trẻ có thể biết về sự tích Đền Gióng, là khu di tích lịch sử của quê hương, của đất nước, ngày mở Hội Gióng được mở hằng năm vào ngày 9/ 4 [âm lịch], trẻ có thể biết sử dụng một số từ của những tham dự Hội Gióng [Ông Hiệu, Cô Tướng, áo đen, áo đỏ, …], trẻ biết ăn mặc đẹp khi đi xem hội, …

Ngày 30 – 4, ngày giải phóng Miền Nam thường được các trường mầm non phía nam chú ý đưa vào thực hiện chủ đề, tùy theo từng địa phương để lựa chọn nội dung và hình thức phù hợp.

Ở độ tuổi mẫu giáo lớn, trẻ đã có một số kĩ năng hoạt động, một số hiểu biết về ngày hội ngày lễ gần gũi đối với trẻ, vì vậy giáo viên có thể cho trẻ tham gia vào nhiều việc hơn, nhằm khuyến khích tính độc lập của trẻ. Cô giáo liệt kê những công việc cần chuẩn bị cho ngày hội ngày lễ, trẻ tự nhận việc hoặc phân công nhau theo nhóm với sự gợi ý của cô khi cần thíết. Đối với những phần việc phức tạp, cô cùng làm với trẻ. Ở lứa tuổi này, trẻ có thể dẫn chương trình ngắn, cụ thể cho một điệu múa, bài hát, … Trẻ cũng có thể hoàn toàn một điệu múa cùng nhau hoặc cùng cô giáo.

– Cô giáo lựa chọn các chủ đề phù hợp, lên kế hoạch quý, tháng, tuần.

– Tổ chức tuyên truyền về ngày lễ [trong các buổi họp phụ huynh, trên bảng tin, thông báo cho  phụ huynh, …].

– Cô giáo tạo cho trẻ tâm thế chờ đón ngày hội, ngày lễ bằng cách trò chuyện với trẻ, cho trẻ xem tranh về ngày hội, ngày lễ. Luyện tập cho trẻ các tiết mục văn nghệ tự chọn : múa, hát, kể chuyện, đọc thơ, trò chơi, … Cùng trẻ làm ra các sản phẩm trang hoàng lớp học sao cho thật đẹp và rực rỡ : vẽ tranh, cắt dán, ghép ảnh, treo tranh, dán xúc xích, treo bóng bay, treo hoa, đặt cây cảnh, trang trí quần áo, mũ giấy cho các tiết mục biểu diễn văn nghệ. Tạo điều kiện để mọi trẻ đều được tham gia vào các hoạt động này.

– Kế hoạch thực hiện ngày hội ngày lễ : Chuẩn bị dàn ý, nội dung chương trình, lời dẫn ngắn gọn phản ánh đúng tinh thần ngày hội ngày lễ [nếu tổ chức lại lớp thì cô giáo phụ trách lớp chuẩn bị, nếu toch toàn trường thì ban lãnh đạo trường chuẩn bị], địa điểm, thời gian, người diều khiển chương trình, hình thức tổ chức, vị trí chỗ ngồi của trẻ, giáo viên, cán bộ, … Sử dụng nhiều hoạt động đa dạng phục vụ cho ngày hội, ngày lễ. Chương trình được sắp xếp hài hòa giữa các tiết mục hát, múa, đọc thơ, … Cần chú ý đến các hoạt động phụ họa của trẻ với các tiết mục biểu diễn của nhóm chính và tăng cường các hoạt động cho tất cả trẻ cùng được tham gia.

– Trang phục của trẻ cần trang nhã, mềm mại. Nếu trẻ đóng vai người lớn hoặc các dân tộc cũng cần cải biên cho dảm bảo tính hồn nhiên của trẻ. Không nên trang phục cho trẻ theo kiểu người lớn thu nhỏ, như vậy sẽ làm cho trẻ cứng nhắc, mất vẻ hồn nhiên, thơ ngây.

– Tùy điều kiện và nội dung cụ thể mà lựa chọn địa điểm và thời gian tổ chức : Địa điểm có thể ở ngoài trời, hoặc trong lớp học, nhưng cần đủ rỗng, bố trí hợp lí các khu vực vui chơi, biểu diễn , trẻ dễ dàng quan sát các khu vực.

– Thời gian tổ chức ngày hội ngày lễ vào buổi  sáng hoặc buổi chiều sau giờ ngủ trưa, kéo dài chừng 30 – 40 phút.

Lưu ý :

Nếu có điều kiện và nội dung phù hợp, có thể tổ chức cả trường hoặc ghép các lớp để trẻ ở các độ tuổi trong trường cùng được phụ họa với mẫu giáo lớn]. Trong khi tổ chức, cô chú ý điều khiển chương trình sao cho trẻ ở các nhóm lớp có những hoạt động vận động hài hòa phù hợp với sức của trẻ. Không để trẻ dừng lại ở một tư thế quá lâu như : đứng kéo dài, ngồi suốt buổi lễ hoặc nhảy múa liên tục, … Nếu có các nhân vật cùng tham gia thì cần được chuẩn bị trước, cho trẻ biết để khỏi bị bỡ ngỡ.

Đối với trẻ khuyết tật, giáo viên không đặt mục đích hình thành ở trẻ những kĩ năng phức tạp, mà chỉ tạo cơ hội cho trẻ tự trải nghiệm các cảm xúc của ngày lễ, ngày hội, lôi cuốn trẻ tham gia vào quá trình chuẩn bị ngày lễ, ngày hội càng nhiều càng tốt. Khi phân công, giáo viên có thể gợi ý để trẻ khuyết tật tự lựa chọn công việc và nhóm bạn mà trẻ thích, đồng thời giáo viên phải khuyến khích các trẻ khác chú ý giúp đỡ, chỉ dẫn cho trẻ khuyết tật, tuy nhiên không nên đòi hỏi nhiều ở trẻ.

  1. Gợi ý cách tổ chức ngày hội ngày lễ

Ngày hội đến trường [Lễ khai giảng ở trường mầm non]

Quy mô tổ chức : Cả trường.

Trang phục : Cô và các cháu, phụ huynh mặc quần áo đẹp.

Địa điểm : Sân trường hoặc hội trường lớn.

Chuẩn bị : Phông trang trí cảnh ngày hội đến trường, cờ, hoa, bóng bay, …

Tiến hành

– Đại biểu và phụ huynh ngồi hàng ghế phía sau các cháu hoặc ngồi phía bên phải và bên trái các cháu. Cô và các cháu từ từ tiến ra, đi vào hàng ghế phía trước lễ đài, nơi tổ chức lễ hội theo tiếng nhạc bài hát “Em đi mẫu giáo” [bài hát được phát liên tục cho đến khi các cháu ổn định chỗ ngồi].

– Cô giáo điều khiển chương trình lên phía trước các cháu và chào toàn thể các cháu cùng các đại biểu. Tiếp đến, cô nói về ngày hội [ngày toàn thể trẻ em đến trường và đón các em 3 tuổi, …]. Cô bắt nhịp cho các cháu hát bài “ngày vui của bẻ”.

– Tiếp theo, cô giáo điều khiển chương trình giới thiệu đại biểu tới dự lễ và mời cô hiệu trưởng phát biểu.

– Các cô giáo cùng các cháu biểu diễn các tiết mục văn nghệ chào mừng ngày hội [Ví dụ : Đọc thơ “bạn mới”, hát múa “Trường mẫu giáo yêu thương”, …].

– Sau đó, một đại biểu lên phát biểu, căn dặn, động viên các cháu bằng lới nói nhẹ nhàng, ngắn gọn. Tiếp theo là tặng hoa, tặng quà cho trường [nếu có chuẩn bị].

– Cuối cùng, cô giáo điều khiển chương trình kết thúc buổi lễ, cảm ơn các đại biểu, cảm ơn chương trình hội diễn văn nghệ của trẻ, chúc các cháu một năm học vui vẻ, mạnh khỏe và chăm ngoan.

– Bài hát “Ngày vui của bé” vang lên, cả trường hát. Các lớp từ từ tỏa ra sân chơi trong tiếng nhạc, tiếng hát. Sau đó các cháu trở về lớp.

– Các đại biểu được mời về văn phòng của trường tọa đàm cùng với trường triển khai các công việc chăm sóc giáo dục trẻ.

– Hoạt động tiếp theo : Cô giáo phối hợp với gia đình tạo điều kiện cho trẻ sống lại cảm xúc của ngày hội [kể lại ngày hội được tổ chức như thế nào, sự tham gia của trẻ vào ngày hội, cảm xúc của trẻ, …]. Trong các giờ chơi, giờ vẽ, hoạt động góc, … Cô gợi ý trẻ có thể làm các sản phẩm thể hiện ngày hội.

D – TỔ CHỨC MÔI TRƯỜNG HOẠT ĐỘNG

I – HƯỚNG DẪN CHUNG

Tổ chức môi trường hoạt động của trẻ trong trường, lớp mẫu giáo có vai trò quan trọng đối với sự phát triển về thể chất, ngôn ngữ, trí tuệ, tình cảm – xã hội, khả năng thẩm mĩ, sáng tạo của trẻ. Vì vậy, bố trí và tổ chức môi trường cho trẻ chơi và hoạt động cần đảm bảo trên nguyên tắc cho trẻ “chơi mà học” và phải tính đến các yếu tố sau :

– Không gian thực tế của trường

– Mục đích tổ chức các hoạt động.

– Các yếu tố an toàn cho trẻ.

– Các nhu cầu của trẻ đặc biệt [nếu có].

– Sự linh hoạt và dễ thay đổi theo mục đích giáo dục theo các chủ đề.

– Góc chơi đóng vai.

– Góc tạo hình.

– Góc thư viện [sách, truyện].

– Góc chơi xây dựng với các hình khối lớn, ghép hình và lắp ráp.

– Góc khám phá khoa học.

– Góc âm nhạc [nghệ thuật].

Tùy theo điều kiện của nhóm lớp, giáo viên có thể bố trí 3 đến 4 khu vực cố định. Ở các khu vực hoạt động có thể bố trí các giá sát tường, linh hoạt và triển khai thành góc khi cần thíết.

– Cần bố trí các khu vực chơi, hoạt động trong lớp và ngoài  trời phù hợp, thuận lợi cho việc sử dụng của cô và trẻ, đảm bảo theo các nguyên tắc đề ra trong chương trình.

– Phòng học đảm bảo sáng sủa, sạch sẽ, nhiều không gian mở. Cửa, lối đi ra vào, hiên, sân được bố trí hợp lí. Trong lớp nên có khu vực thuận tiên cho giáo viên đón trẻ tiếp xúc, gặp gỡ trò chuyện với phụ huynh.

– Trong phòng nên bố trí bàn ghế, tủ, kệ, giá thuận tiện, dễ thu dọn khi cần thíết, dành nhiều không gian cho trẻ hoạt động cá nhân, nhóm nhỏ, cả lớp và nghỉ trưa. Các trang thiết bị, các giá, tủ nên bố trí sao cho dễ dàng di chuyển để làm vắc ngăn cho các khu vực hoạt động riêng biệt phù hợp với tính chất của hoạt động động và tĩnh.

– Nếu phòng, lớp quá nhỏ, có thể để bớt đồ đạc, bàn ghế ra ngoài hiên, tạo nhiều không gian, diện tích cho trẻ hoạt động. Ngoài ra có thể linh hoạt bố trí thêm các không gian phụ trong lớp hoặc bên ngoài hiên lớp học [nếu có] phù hợp với các góc chơi khi cần thíết tổ chức cho trẻ chơi.

Các khu vực hoạt động [góc chơi] cần bố trí thuận lợi cho trẻ được hoạt động theo khả năng, hứng thú, sở thích riêng. Khuyến khích trẻ tự chọn nơi chơi, các góc chơi, các khu vực hoạt động và tự quy định chơi cái gì, chơi với ai tham gia trò chơi, các góc chơi, hoạt động theo khả năng và theo ý thích như : vẽ, nặn, lắp ráp, làm truyện tranh, … Phù hợp với triển khai của chủ đề và dễ dàng giao tiếp với các bạn trong nhóm và với các nhóm chơi khác.

– Trang trí môi trường, bố trí tranh ảnh trong lớp ở các góc hoạt động cần đảm bảo tính thẩm mĩ, mang tính mở phù hợp với quá trình triển khai các nhánh của chủ đề, luôn tạo ra sự mới mẻ, hấp dẫn, kích thích trẻ hoạt động. Các bức tranh này cần được đưa ra vào những sản phẩm của trẻ và của cô cùng làm ra trong quá trình chơi, hoạt động ở các góc và cung cấp cơ hội cho trẻ, củng cố những hiểu biết, vận dụng giải quyết các vấn đề đặt ra.

– Các góc cần được trang trí hấp dẫn, thẩm mĩ cùng với tên gọi và hình ảnh phù hợp, giúp trẻ nhận biết góc chơi một cách dễ dàng. Tên các góc cần được viết to theo đúng quy định mẫu chữ, giúp trẻ làm quen với chữ viết, gần gũi, dễ hiểu đối với trẻ như : “Gia đình của tôi”, “Bé khám phá khoa học”, “Phòng khám đa khoa”, “Công trình xây dựng của chúng tôi”.

– Khu vực vệ sinh cần được bố trí gần vòi sạch, vệ sinh sạch sẽ, an toàn thuận tiện cho trẻ tự thực hiện vệ sinh cá nhân.

– Các khu vực chơi còn được bố trí phản ánh văn hóa nơi trẻ sống như các trò chơi được sử dụng phản ánh những đồ dùng, trang phục, của địa phương, … Ngoài ra để giúp cho trẻ có những hiểu biết về các nền văn hóa khác, cần bố trí có chỗ thích hợp để trưng bày một số ảnh về trẻ em các dân tộc khác nhau ; ảnh cờ, tranh ảnh của các nước, …

  1. Quản lí, hướng dẫn và giám sát trẻ chơi ở các khu vực hoạt động [góc chơi]

– Đối với lớp mẫu giáo lớn, cô giáo có thể cùng trẻ chuẩn bị, tổ chức môi trường, cô hướng dẫn, theo dõi điều chỉnh hoạt động của trẻ trong các khu vực [góc chơi] hoạt động.

– Trong thời gian tổ chức cho trẻ chơi, hoạt động ở các góc, phụ thuộc vào kinh nghiệm của trẻ và yêu cầu triển khai của chủ đề, cô có thể tổ chức, triển khai dần dần từ 4 đến 5 khu vực [góc chơi] phù hợp. Không nhất thiết triển khai cùng một lúc với tất cả các góc.

– Phù hợp với nội dung chơi, hoạt động ở các góc, cô quan sát, gợi ý, khuyến khích trẻ hợp tác cùng nhau trong nhóm chơi, tạo cơ hội thể hiện mối quan hệ giao tiếp với các khu vực, nhóm chơi khác, mở rộng nội dung chơi phù hợp vớ chủ đề [Ví dụ : Mẹ cho con ăn bột, bố sắp xếp trang trí căn hộ gia đình, sửa chữa, … [ở góc “Gia đình”] ; các mẹ đưa con đi học ở trường mầm non [góc chơi đóng vai “Trường mầm non”] ; hoặc cùng nhau chơi, làm một việc gì đó ở góc chơi với cát, nước, cùng tham gia chăm sóc cây cối, các con vật ở góc thiên nhiên, …]. Cô bố trí hợp lí về thời gian, không gian cho các nhóm chơi, hướng dẫn, tạo điều kiện cho mỗi trẻ cùng suy nghĩ, làm một việc gì đó, không thúc ép, áp đặt trẻ để tránh trẻ bắt chước lẫn nhau một cách thụ động và khuyến khích trẻ quan sát và học hỏi [Ví dụ : Cô gợi ý hỏi trẻ nên bố trí, trang trí những gì trong “căn phòng của gia đình” cho đẹp và thuận tiện [góc chơi “Gia đình” với chủ đề “Gia đình”] ; xưởng “May mặc thời trang” [góc tạo hình] sẽ thiết kế và may những mẫu, kiểu trang phục quần áo như thế nào phục vụ cho khách hàng, …]. Cô nên tạo tình huống thích hợp gợi ý trẻ cùng làm việc theo nhóm để phối hợp làm những sản phẩm, đồ chơi nào đó [góc tạo hình, góc gia đình] trong quá trình chơi giúp cho nội dung trò chơi trở nên phong phú, hấp dẫn [Ví dụ : “Xí nghiệp sản xuất ô tô” có những bộ phận làm thân và sơn ôtô, có bộ phận làm bánh xe, bộ phận lắp ráp các bộ phận của ôtô theo chủng loại ôtô khác nhau, … sau đó cung cấp cho “Siêu thị ôtô Hà Nội” để bán hoặc hco bến xe “xe khách” 1 – 5, …].

– Trong quá trình trẻ chơi, hoạt động ở các góc, cô bao quát và chú ý đến nhu cầu, hứng thú của từng cá nhân, của nhóm chơi, gợi ý luân phiên, điều chỉnh số trẻ trong các nhóm chơi trong các khu vực hoạt động [góc] chơi phù hợp.

– Khi tổ chức cho trẻ chơi, hoạt động ở các góc, cô quan tâm, bao quát toàn bộ các khu vực hoạt động của trẻ. Trong đó, khu vực chơi đóng vai, chơi xây dựng, lắp ghép, chơi ở góc tạo hình, góc khám phá khoa học được coi như khu vực hoạt động trọng tâm.

– Với trẻ mẫu giáo lớn, trong quá trình trẻ tham gia vào hoạt động ở các góc, cô theo dõi, quan sát các nhóm chơi, các hoạt động của trẻ để gợi mở, hướng dẫn kịp thời, khuyến khích trẻ thể hiện ý tưởng của mình, mở rộng mối quan hệ qua lại của trẻ giữa các nhóm chơi ở các khu vực hoạt động của mình, mở rộng mối quan hệ qua lại của trẻ giữa các nhóm chơi ở các khu vực hoạt động khác phù hợp với chủ đề chung. Không nên áp đặt, bắt trẻ chơi theo ý của người lớn hay ý của cô giáo. Cô ghi nhật kí về các hoạt động của trẻ, số lần trẻ chơi trong các khu vực hoạt động để có thể  điều chỉnh, luân phiên, kịp thời, tránh tình trạng trẻ chơi trong một khu vực hoạt động nào đó quá lâu.

  1. Các nguồn cung cấp vật liệu

– Vận động cha mẹ đóng góp đồ dùng học tập và đồ dùng đã qua sử dụng.

– Vận động các cửa hàng, nhóm cộng đồng phụ huynh tặng trường, lớp [hộp bìa các tông, vỏ chai lọ nhựa, giấy báo, tạp chí cũ, quần áo, giày dép, điện thoại không dùng nữa, mũ nón, túi, khăn, cà vạt, trang sức giả, hoặc dụng cụ nghề mộc, …].

– Mua ở các trung tâm thiết bị và ở các cửa hàng bách hóa.

– Cô và trẻ tự tạo và làm.

– Những đồ dùng  đã qua sử dụng cần được làm vệ sinh sạch sẽ trước khi cho trẻ dùng để chơi.

II – GỢI Ý HƯỚNG DẪN TỔ CHỨC CÁC KHU VỰC HOẠT ĐỘNG

– Khu vực chơi đóng vai là khu vực hoạt động trọng tâm, vì vậy cần bố trí vị trí, không gian thích hợp, đủ để triển khai các góc nhỏ phù hợp với các vai chơi như góc “Căn hộ gia đình”, “Cửa hàng”, “Bệnh viện” , ”Trường mẫu giáo”, … Các khu vực [góc] chơi cần được bố trí sao cho tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ tự do tham gia vào các vai chơi, khuyến khích trẻ suy nghĩ, tưởng tượng và thể hiện vai chơi một cách tích cực phù hợp như : đóng vai làm cha mẹ – con cái, em bé, cô giáo, bác sĩ, người bán hàng, người mua hàng, chú công nhân, chú công an, bộ đội, …

– Không gian ở khu vực này cần bố trí đủ để có thể chia thành một số góc nhỏ : góc “Căn hộ gia đình”, “Trường mẫu giáo”, “Công viên”, “Doanh trại bộ đội”, “Cửa hàng siêu thị”, ”Cửa hàng rau quả”, “Bệnh viện”, …

– Trong khu vực này, vị trí các góc chơi đóng vai “Căn hộ gia đình”, “Bệnh viện”, “Cửa hàng siêu thị” [cửa hàng mua bán] thường được bố trí tương đối cố định. Ngoài ra , các góc chơi khác như “Trường mẫu giáo”, “Công viên”, “Doanh trại bộ đội”, “Cửa hàng ăn uống, giải khát”, … có thể bố trí với khoảng không gian khi cần triển khai linh hoạt, thích hợp. Đối với góc chơi “Căn hộ gia đình”, tùy theo điều kiện không gian của lớp, giáo viên có thể bố trí có khoảng không gian để có thể chơi đóng vai với 1, 2 gia đình với các đồ dùng thích hợp như các kệ, giá thấp, tủ quần áo, khu vực bếp có bàn ăn, tủ lạnh, bếp, dụng cụ nấu ăn ; gợi ý các vai chơi cùng sản xuất phòng khách với bộ bàn ghế ; phòng ngủ với giường, chăn, gối và các con búp bê khác nhau. Gần bên góc “Gia đình” nên bố trí không gian cho các góc chơi đóng các vai khác của các trò chơi như góc “Siêu thị” , “Phòng khám đa khoa của bệnh viện” hoặc “Trường Mầm non”. Tùy theo từng địa phương và phù hợp từng chủ đề nên có không gian thích hợp cho triển khai trò chơi xây dựng “Trại chăn nuôi”, “Vườn rau xanh”, …

– Đối với lớp mẫu giáo lớn, cô cần bố trí không gian thích hợp, thuận tiện cho việc tổ chức các trò chơi mang tính chất tập thể và hoạt động theo nhóm. Vì vậy, ở khu vực này, cô nên chú ý bố trí các góc chơi thuận tiện cho việc mở rộng nội dung chơi, tạo cơ hội cho trẻ trong các nhóm có thể đi lại, giao tiếp thuận tiện, dễ dàng với các khu vực chơi khác [Ví dụ : Ở khu vực hoạt động tạo hình, âm nhạc : Các bà mẹ đưa con đi xem triển lãm thiết kế thời trang, đi mua sắm, hoặc đưa con đến thư viện, đi xem biểu diễn văn nghệ, …].

– Khi tổ chức, tiến hành cho trẻ chơi trong khu vực này, đồ chơi, đồ dùng cho trẻ hoạt động cần được đưa ra, bổ sung dần, sắp xếp phù hợp với chủ đề chơi, nội dung chơi tạo cho trẻ sự mới mẻ, hấp dẫn và kích thích khám phá, tìm tòi.

– Bố trí, sắp xếp, vật liệu :

  + Trang phục được treo trên giá, mắc áo để dễ sử dụng.

  + Đồ dủng, đồ chơi và vật liệu giúp trẻ có thể làm đồ chơi phục vụ cho trò chơi đóng vai “Gia đình” phù hợp với chủ đề.

  + Đồ dùng, thiết bị phục vụ đóng vai các nghề khác nhau như : “Cô giáo, lớp học” cần có bảng, bàn ghế cô giáo và học sinh, sách vở, …

  + Trong góc “Gia đình” có thể chia thành góc nhỏ : bếp nấu ăn, phòng ngủ của em bé, …

– Với những nơi có điều kiện, cần được trang bị theo yêu cầu của danh mục đồ chơi thiết bị cho trẻ mẫu giáo lớn.

  1. Khu vực hoạt động tạo hình

– Tạo hình là hoạt động nghệ thuật luôn được trẻ ưa thích. Trong khu vực hoạt động này, trẻ mong muốn được thể hiện sự sáng tạo, tiếp nhận những cảm xúc tích cực sáng tạo thông qua việc bố trí, tổ chức môi trường, không gian hoạt động thích hợp.

– Ví dụ không gian trong lớp dành cho khu vực này nên được bố trí các giác kệ có bánh xe kê cố định sát tường, hoặc khi cần thíết có thể tận dụng khoảng không gian khác bánh xe kê cố định sát tường, hoặc khi cần thíết có thể tận dụng khoảng không gian khác phù hợp để bố trí thêm bàn và chỗ ngồi khi cần thíết. Bàn, ghế, các giá vẽ, giá đựng nên bố trí mở, phù hợp chiều cao của trẻ để trẻ có thể dễ lấy và sử dụng. Các kệ, giá cao hơn nên để các vật liệu đồ dùng chưa cần dùng ngày ;  cần có giá, các kẹp, dây để treo sản phẩm, … tạo điều kiện cho trẻ trưng bày sản phẩm theo chủ đề. Cô khuyến khích các bạn, bố mẹ xem các sản phẩm hội họa của trẻ được treo trên tường, trưng bày ở các giá trong lớp, …

– Nếu bố trí đầy đủ các phương tiện, vật liệu cho trẻ thực hiện hoạt động như : vẽ bằng ngón tay, bút màu, bút dạ, tô màu, nặn, xây dựng, cắt, dán, in, …

– Bàn vẽ hay giá vẽ bố trí ở khu vực thoáng, rộng và gần nguồn nước, nên phủ khăn nilon trên các bàn cho trẻ chơi với đất nặn hoặc các vật liệu dễ bôi  bẩn.

– Ở góc ngày, đồ dùng, phương tiện hoạt động được bày biện sao cho khuyến khích trẻ tự lựa chọn hoạt động theo ý thích, hoạt động theo nhóm gắn với chủ đề và nội dung chơi. Cô giáo không nên áp đặt làm theo ý của mình hay làm hộ trẻ. Cô bao quát, chỉ hướng dẫn trẻ khi cần thíết.

– Với lớp mẫu giáo lớn, đặc biệt đối với một số kĩ năng  chưa được thuần thục hoặc với phương tiện, đồ dùng nào đó để thực hiện các hoạt động, chia sẻ ý tưởng cùng với các bạn trong nhóm, sử dụng các phương tiện đa dạng theo ý thích của mình, phù hợp với hoạt động, mục đích chơi, phù hợp với nội dung chơi của góc hoạt động và chủ đề chơi.

– Cô có thể gợi ý trẻ tự pha màu, tạo màu mới ; thực hành với các vật liệu khác nhau, có thể dán bằng hồ, hoặc thử nghiệm với những vật liệu cần băng dính ; thực hiện các hoạt động vẽ, nặn, … để tạo ra các sản phẩm liên quan đến chủ đề [làm đồ chơi về các phương tiện giao thông, về các loại củ, quả bằng nguyên vật liệu qua sử dụng ; làm con rối, làm người máy, …], phục vụ cho chủ đề chơi chung của lớp.

– Đối với lớp  mẫu giáo lớn, cô nên khuyến khích trẻ thực hành, luyện tập một số kĩ năng xã hội ở góc này như : chia sẻ, trò chuyện trao đổi với bạn, với cô về ý tưởng mới khi vẽ, nặn, … [kể mình làm về cái gì] hoặc nhận xét sản phẩm của mình, của bạn ; thu dọn đồ dùng khi thực hiện xong ; xhia sẻ đồ dùng với bạn, tự rửa tay khi kết thúc, …

– Chơi và hoạt động của trẻ trong góc tạo hình có thể được triển khai hằng ngày phù hợp với thời điểm chơi, hoạt động trong các góc đã quy định trong thời gian biểu và chơi hoạt động theo ý thich ở thời điểm hoạt động chiều. Các phương pháp và tổ chức hướng dẫn trẻ trong khu vực hoạt động này cần tuân theo yêu cầu, đặc trưng của hoạt động tạo hình, phù hợp với lứa tuổi mẫu giáo lớn.

– Ở lớp mẫu giáo lớn, trẻ đã biết cách mở sách, lật từng trang, sử dụng sách truyện, cô chỉ gợi ý khi cần thíết. Cô khuyến khích trẻ cùng “đọc” theo tranh, cùng xem truyện tranh với bạn, trao đổi với nhau, hoặc kể cho nhau nghe, kể lại chuyện, mô tả lại những gì trẻ nhìn thấy trong tranh truyện. Cô có thể gợi ý, cách làm sách tranh minh họa về những chuyện kể đã nghe, những hình ảnh gây ấn tượng đối với trẻ. Khuyến khích trẻ tự làm truyện tranh và kể lại truyện, … Khuyến khích trẻ học những từ mới, rèn luyện kĩ năng giao tiếp, xã hội cho trẻ.

– Những sách và vật liệu cần thíết cho góc này :

  + Các sách truyện tranh của mẫu giáo phù hợp với lứa tuổi, có nội dung gắn với chủ đề [nội dung truyện tranh phù hợp, không quá nhiều lời].

  + Các sách trẻ làm dựa theo câu chuyện trẻ tự kể và tưởng tượng với sự hướng dẫn của cô.

  + Các con rối, tranh ảnh sử dụng để kể chuyện.

  + Tranh, ảnh các loại tạp chí [Họa mi, Nhi đồng, …], lịch treo tường, tranh ảnh đã sử dụng dùng để cho trẻ xem tranh ảnh, làm truyện tranh.

  1. Khu vực chơi ghép hình, lắp ráp và xây dựng.

– Hoạt động ở góc này cung cấp cho trẻ nhiều cơ hội, óc tưởng tượng sáng tạo, phát triển ở trẻ kĩ năng phối hợp tay, phát triển vận động tinh và các cơ nhỏ, tạo điều kiện có cơ hội luyện tập kĩ năng giao tiếp xã hội.

– Hoạt động ghép hình, lắp ráp và xếp hình, xây dựng, … có thể đặt ở chỗ cố định hoặc di động, tùy theo điều kiện phòng, lớp.

– Bố trí có chỗ thoải mái để trẻ có thể chơi xếp hình với các hình khối có kích thước to, nhỏ, các khối sơn màu khác nhau, có không gian cho trẻ làm việc, chơi xây dựng các công trình, … với các hình khối bằng gỗ, vỏ hộp giấy, hộp ti vi, hộp đựng dài, các khối xốp, …

– Bố trí khoảng không gian thích hợp [thảm, chiều , xếp các bàn lại với nhau] có chỗ cho trẻ chơi với các đồ chơi, đồ vật, hình khối ; tạo điều kiện cho trẻ dễ dàng lựa chọn các chi tiết lắp ráp, xếp hình, theo ý thích. Cô không nên để đồ dùng, đồ chơi trên giá cao, kín hoặc xếp chồng lên nhau gây khó khăn cho sự lựa chọn của trẻ. Không nên đưa tất cả các thứ ra cho trẻ chơi cùng một lúc.

– Trong khu vực này cần có các đồ chơi ghép hình bằng gỗ, các bảng có lỗ, các bộ xây dựng với các khối gỗ khác nhau, các khối bằng nhựa nhỏ, bộ đồ sửa chữa, một số bộ ghép hình về các con vật, tranh ảnh hoa, quả, … để chơi xếp các hình, lắp ráp đồ chơi.

– Có các loại vật liệu khác như các đinh ốc không rỉ, các nút chai đục lỗ, các loại hạt có lỗ, dây để trẻ chơi xâu hạt, học đếm, phân loại và cùng cộng tác làm việc trong nhóm và vật liệu có thể chơi đan, tết một cái gì đó phù hợp với chủ đề.

– Cần lưu ý, lựa chọn những hình khối đa dạng về hình dạnh, chủng loại, kích thước, màu sắc có trọng lượng phù hợp với độ tuổi và bố trí, sắp xếp thêm một số đồ chơi như : biển báo giao thông, các loại cây, con vật, ô tô, mô tô, xe đạp, máy bay, búp bê, … để triển khai chơi xây dựng về công trình giao thông, xây nhà ở cầu, ô tô hoặc chơi xây dựng các công trình theo ý thích của trẻ gắn với điều kiện của địa phương.

– Cô giáo cần bao quát hướng dẫn trẻ chơi phù hợp với việc triển khai các chủ đề giáo dục và hướng dẫn cách chơi phù hợp với độ tuổi mẫu giáo lớn. Cô có thể gợi ý cho trẻ tự chọn theo ý thích chơi với ai, chơi gì và cùng chơi với trẻ để hướng dẫn cách chơi khi cần thíết. Với lớp này, cô giáo có thể tổ chức, gợi ý để tạo cho trẻ có các mối quan hệ qua lại với các khu vực chơi phù hợp với chủ đề chơi chung như : mời các gia đình  đi tham quan các công trình xây dựng, xường lắp ráp ô tô, công viên, sở thích, …

– Cô có thể cho trẻ chơi trên bàn, trải chiếu dưới đất hoặc có không gian thích hợp trên nền nhà sạch. Khuyến khích trẻ tạo ra những sản phẩm, làm đồ chơi phục vụ cho chủ đề chơi chung của lớp. Cô gợi mở và khuyến khích trẻ trong nhóm chơi giao tiếp với các nhóm, khu hoạt động khác, làm nội dung chơi trở nên phong phú hơn. Khi kết thúc trò chơi, cô chú ý hướng dẫn trẻ trong các nhóm chơi biết tự cất đồ chơi đúng nơi quy định.

  1. Khu vực hoạt động khám phá thiên nhiên và khoa học

– Trẻ lứa tuổi mẫu giáo rất thích thú khám phá, tìm hiểu môi trường xung quanh, đặc biệt thích chăm sóc cây cối, vật nuôi ; thích thú theo dõi, quan sát sự lớn lên của chúng ; học các kĩ năng về nhận thức, vận động tinh, kĩ năng giao tiếp xã hội của trẻ được luyện tập, củng cố và trở nên bền vững hơn.

– Bố trí ở một góc trong lớp hoặc tốt nhất ở một góc ngoài hiên lớp học những cây cảnh, các loại hạt giống, quả, rau, có chậu để gieo hạt, quan sát sự  nảy mầm và lớn lên của cây ; lọ nước cho trẻ quan sát rễ cây ; bể cá cảnh, thức ăn của cá, các dụng cụ chăm sóc cây cối như bình tưới nước, … để trồng và theo dõi sự nảy mầm, một số cây cảnh, cây rau quen thuộc để trẻ được chăm sóc và quan sát sự lớn lên, thay đổi của chúng và thực hành chăm cóc cây cối.

– Cô có thể kê các bàn, giá kệ để trưng bày các loại quả cân, các loại cân, nam châm, đồ chơi bằng sắt, các hình bằng nhựa, bìa cứng với các màu sắc khác nhau : hình tròn, tam giác, hình vuông, hình chữ nhật … ; lô tô về các con vật, các loại rau quả, các loại phương tiện giao thông để chơi phân loại, đếm, so sánh, thử nghiệm cân bằng về trọng lượng, tìm hiểu về tính chất của các nam châm v.v…

– Tùy thuộc vào điều kiện trường/ lớp, cần bố trí có chỗ cho trẻ chơi với cát, nước với những đồ chơi thích hợp như  : rổ, đĩa bát nhựa, thìa, các loại vỏ trai ốc, phễu, hố cát, chậu nước ; một số đồ vật có thể nổi, chìm trong nước ; bể cá ; đồ chơi thổi bong bóng xà phòng ; một số đồ dùng khuyến khích trẻ làm thí nghiệm nhuộm màu nước, nhận biết một số tính chất về nước ; các khuôn in, đóng để trẻ chơi với cát.

– Tùy theo nội dung của chủ đề và điều kiện của lớp, cô giúp trẻ hướng lựa chọn nội dung chơi ở khu vực này cho thích hợp. Cô nên chú ý, lên kế hoạch và có những gợi ý để có thể luân phiên cho trẻ chơi trong khu vực này ở các ngày trong tuần.

– Không nhất thiết triển khai trong một ngày cùng một lúc tất cả những nội dung trên trong khu vực này.

  1. Khu vực hoạt động âm nhạc

– Âm nhạc là một hoạt động vui vẻ, giải thích, thích hợp với trẻ ở lứa tuổi mầm non. Vì vậy, góc âm nhạc được bố trí và tổ chức môi trường hợp lí, thuận tiện sẽ khuyến khích và tạo nhiều cơ hội cho trẻ được hoạt động tích cực, trải nghiệm những cảm  xúc tích cực, vui tươi qua các giai điệu, lời ca, trò chơi âm nhạc, đóng kịch.

– Khu vực hoạt động này cần có khoảng không gian và đặt xa các góc khác. Có thể bố trí chỗi cho một sân khấu nhỏ để biểu diễn văn nghệ hoặc chơi đóng kịch.

– Các kệ, giá để cát xét, các băng nhạc với những bài hát phù hợp với lứa tuổi, thuận tiện cho việc sử dụng của trẻ.

– Các tủ đựng và mắc áo để treo mũ, quần áo, váy, đồ trang phục dân tộc mang tính truyền thống của địa phương. Có thể bố trí những bộ trang phục để chơi đóng kịch, chơi các trò chơi âm nhạc, rối và biểu diễn văn nghệ, các loại dụng cụ âm nhạc tự  tạo [mang tính truyền thống dân tộc và địa phương], đàn oóc gan, … Tùy theo điều kiện của địa phương có thể bố trí một số loại dụng cụ âm nhạc khác nhau.

– Các dụng cụ âm nhạc, đồ dùng, trang phục phục vụ cho hoạt động hát múa, biểu diễn văn nghệ, … cần được bày biện ở vị trí thích hợp thuận, khuyến khích trẻ chơi và thử nghiệm các loại nhạc cụ đó. Trong khu vực này, tùy thuộc vào nội dung triển khai của từng chủ đề, cô giáo có thể chuẩn bị bổ sung đồ dùng, gợi ý một nhóm trẻ tự nghe băng nhạc, ôn lại vận động theo bài hát, biểu diễn văn nghệ hoặc cũng có thể cùng với các bạn thưởng thức âm nhạc, nghe các âm nhạc khác nhau, thể hiện những cảm xúc vui tươi, buồn, … Trong những trường hợp cần thíết, cô cùng tham gia với trẻ để kịp thời hướng dẫn. Cô chú ý quan sát, gợi ý để hằng tuần trẻ trong lớp đều được tham gia ở góc này.

III – TỔ CHỨC MÔI TRƯỜNG HOẠT ĐỘNG NGOÀI TRỜI

Môi trường bên ngoài lớp học rất tốt đối với sức khỏe và việc học tập, vui chơi của trẻ. Chơi ngoài trời tạo cho trẻ nhiều cơ hội vận động toàn, phát triển kĩ năng vận động thô như đi, chạy, nhảy, leo trèo, thăng bằng ; phối hợp các giác quan và tiếp nhận cảm giác.

Hoạt động ngoài trời rất đa dạng và có thể thực hiện ở các khu vực khác nhau.

– Khu cây bóng mát, góc thiên nhiên, bãi cỏ : Khu vực này cần có ghế cho trẻ ngồi nghỉ, nghe kể chuyện. Các nhà chòi, nhà lợp lá, nhà búp bê, nhà chơi với bóng tạo điều kiện khuyến khích trẻ trò chuyện với nhau ; ôn lại những bài hát, điệu múa đã học ; chơi các trò chơi vận động ; tạo cảm xúc vui vẻ, thư giãn, thoải mái, tiếp xúc với không khí trong lành, chăm sóc cây cối, con vật …

– Nên bố trí một góc sân trường các lồng chim, các con vật nuôi mà trẻ yêu thích [thỏ, khỉ, chim, vẹt], các chậu cây cảnh, các chậu có đất có thể gieo hạt, trồng cây …, một số đồ dùng, đồ chơi, dụng cụ phù hợp với hoạt động ở góc thiên nhiên [cào, xẻng nhỏ, bình tưới nước, …]. Ở khu vực này, cô nên khuyến khích luân phiên các nhóm trẻ cùng được tham gia vào các hoạt động chăm sóc ở góc  thiên nhiên, tạo cơ hội cho trẻ được thể nghiệm các cảm xúc của mình.

– Khu vực các thiết bị đồ chơi ngoài trời : Dụng cụ leo trèo : cầu trượt, đu quay, thăng bằng, đường ống hoặc lốp ô tô dựng đứng để chui qua, thang bằng dây thừng, bóng, ô tô, xe đạp ba bánh, … có địa hình mấp mô cho trẻ đi, leo trèo. Cô khuyến khích trẻ hợp tác với nhau, thay phiên nhau chơi với các thiết bị. Những hoạt động này khuyến khích phát triển kĩ năng vận động thô của cơ bắp, các tố chất nhanh, mạnh, khéo léo, thăng bằng, phối hợp nhịp nhàng tay mắt, …

– Khu vực chơi với cát, nước và các vật liệu thiên nhiên : hố cát, bể nước và các vật liệu như xẻng, chai lọ, hộp, ô tô tải, rổ, thìa bát, cân, xà phòng, giấy gấp thuyền, phẩm màu, khuôn, xốp, … Ở khu vực này, cô cần tạo điều kiện cho trẻ được đong đo với nước, thể nghiệm vật chìm – nổi, khô – ướt, nặng – nhẹ, … xây lâu đài bằng cát, đào xới, vẽ ngón tay trên cát, in dấu, tạo sản phẩm bằng khuôn, …

Khi chơi ngoài trời giáo viên chỉ nên giới thiệu các khu chơi và ý tưởng chung, sau đó để trẻ tùy ý lựa chọn trò chơi, địa điểm chơi và cách chơi. Cô gợi ý lựa chọn các trò chơi, tổ chức hoạt động ngoài trời gắn với nội dung triển khai trong ngày và chủ đề. Cô cần bao quát, quan sát trẻ chơi, đảm bảo an toàn cho trẻ

Video liên quan

Chủ Đề