khác
tác phẩm
trường phái âm nhạc gắn với
tác phẩm cụ thể, hành động
sân khấu, kịch nghệ, hiểu biết
về ngoại ngữ chuyên ngành.
Từ bảng so sánh trên có thể thấy, đào tạo CLC giọng Colorature Soprano
tại HVANQGVN hiện có nhiều thế mạnh để phát triển. Chương trình đào tạo
TN tại HVANQGVN đang hiện hữu nhiều nhân tố vượt trội về năng lực
chuyên môn. Bởi vậy, việc thực hiện đào tạo chất lượng cao là góp phần đáp
ứng mục đích đào tạo ra nhiều sinh viên, học viên có tố chất, năng lực, có cơ
hội phát triển tốt hơn bởi được học chương trình đào tạo được thiết kế chất
lượng hơn, học chuyên sâu hơn và cơ hội hội nhập quốc tế nhiều hơn.
1.2. Khái lược về giọng Soprano
1.2.1. Đặc điểm chung của giọng Soprano
Theo cuốn Thuật ngữ âm nhạc của tác giả Nguyễn Bách, Soprano có
nghĩa là “giọng nữ cao” [12, tr. 153].
Theo cuốn Phương pháp Sư phạm Thanh nhạc của tác giả Nguyễn
Trung Kiên: “Soprano là loại giọng hát cao nhất trong các loại giọng” [35,
tr. 70]. Tác giả cho rằng, âm vực giọng nữ cao từ nốt C4 đến E6.
Tác giả Hồ Mộ La, “giọng nữ cao có âm vực cao nhất trong các loại
giọng. Theo tác giả, âm vực của loại giọng này từ nốt C4 đến C6, cao hơn có
thể lên E6 [hiếm]” [45, tr. 176].
Về âm vực giọng nữ cao, thông thường các ca sĩ đạt âm thanh tốt nhất
từ nốt A3 đến C6. Tuy nhiên, nhiều trường hợp có thể xuống tới G3 hoặc lên
tới E6 vẫn đạt âm thanh đẹp đặt biệt đối với giọng Colorature Soprano. Chúng
tôi cho rẳng, âm vực có thể đạt được đối với giọng Soprano còn mang tính
tương đối, nhiều trường hợp hát được âm vực cao hơn hoặc xuống thấp hơn.
Tuy nhiên, về căn bản âm vực các tác giả đưa ra là hồn tồn có căn cứ và để
đạt được trình độ như vậy người học phải có q trình rèn luyện một cách
nghiêm túc. Để hiểu rõ hơn về đặc điểm giọng Soprano, dưới đây chúng tơi
phân tích qua ba phần: Âm khu, âm vực và âm sắc.
17
1.2.1.1. Âm khu
Âm khu của giọng hát là một chuỗi âm thanh có màu sắc đồng nhất
nằm trong âm vực của giọng hát, được tạo nên bởi những hoạt động thống
nhất của cơ quan phát âm. Giọng hát chia làm nhiều âm khu, mỗi âm khu lại
mang một âm thanh với tính chất khác nhau, cụ thể: Âm khu thấp nhất là âm
khu ngực, âm khu trung gồm những nốt ở khoảng trung của giọng hay còn gọi
là âm khu hỗn hợp, cuối cùng là âm khu cao [giọng óc]. Ở âm khu trầm của
giọng nữ thanh đới khép kín và rung lên mềm mại tạo ra âm thanh có âm
lượng tương đối lớn. Âm khu trung thanh đới hoạt động lúc khép lúc mở, đây
là âm khu mang tính chất tự nhiên, có sẵn chiếm khoảng một bát độ.
Âm khu ngực ở các giọng Soprano chỉ có ở những nốt thấp nhất của âm
vực, khoảng một quãng ba, cao hơn âm khu ngực sau những nốt chuyển
giọng, âm thanh được gọi là phần trung của giọng kéo dài lên cao một bát độ,
đôi khi còn cao hơn, đó là âm khu giọng hỗn hợp. Sau âm khu giọng hỗn hợp
là âm khu đầu, lên tới những nốt cao giới hạn của giọng hát. Do cấu tạo sinh
lý đặc biệt đó, người ta nói trong giọng Soprano có ba âm khu và hai quãng
chuyển giọng, phần chính của âm vực là âm khu trung.
Qua những đặc điểm trình bày ở trên, trong cuốn sách “Phương pháp
sư phạm thanh nhạc” của tác giả Nguyễn Trung Kiên có đưa ra mấy kết luận
sau đây:
Đối với giọng nữ, việc luyện tập để có âm thanh đều đặn, khơng
có sự thay đổi rõ rệt, tập trung chủ yếu vào âm khu giọng hỗn
hợp. Không nên sử dụng giọng ngực quá nhiều…Đối với giọng
Lirico Soprano và giọng Colorature Soprano thì nhiệm vụ quan
trọng là tập phát triển âm khu cao của giọng [36, tr 86].
Nhìn chung, âm khu của giọng nữ nói chung, của giọng Colorature
Soprano nói riêng có thể coi như sự phát triển cao của giọng hỗn hợp, khó
phân biệt chỗ chuyển giọng mà chỉ thay đổi chủ yếu về âm lượng.
18
1.2.1.2. Âm sắc của giọng Soprano
Âm sắc là nhân tố căn bản để có thể phân biệt được sự khác nhau giữa
các loại giọng hát. Trong thực tế khơng có hai giọng hát hồn tồn giống
nhau, sự khác biệt ở đây chính là âm sắc. Khơng phải sức mạnh của âm thanh
hay âm vực là giá trị bậc nhất của giọng hát, mà giá trị này dành cho âm sắc.
Trong cuốn Phương pháp sư phạm thanh nhạc của tác giả Nguyễn
Trung Kiên: “Âm sắc của giọng hát là điều kiện tự nhiên cơ bản nhất của
giọng hát. Muốn học hát phải có giọng mà ở đây trước hết là âm sắc đẹp”
[35, tr 98]. Bởi vậy, trong khi học tập TN và biểu diễn cần phải gìn giữ và
phát triển âm sắc của giọng hát ngày càng đẹp hơn. Ngược lại, nếu thấy có
những biểu hiện sai lệch về âm sắc nên có những biện pháp đúng, phù hợp
để kịp thời sửa chữa. Rèn luyện âm sắc là rèn luyện tính chất tự nhiên của
giọng hát, là nhiệm vụ trung tâm trong quá trình học tập kỹ thuật TN. Biết
cách hình thành đúng âm sắc là một hiểu biết chuyên nghiệp rất quan trọng.
Âm sắc luôn mang một khối lượng các bồi âm trong thành phần của âm
thanh, bằng mối quan hệ của nó theo cao độ, âm lượng từ khi khởi đầu xuất
hiện âm thanh. Âm sắc là hiện tượng tự nhiên cần phải thận trọng chú ý gìn
giữ những phẩm chất của nó như: vẻ đẹp, độ sáng, giọng hát tròn, những
phẩm chất này ln cần phải được bảo vệ, khơng chỉ có quan tâm tới việc
luyện tập kỹ thuật mà còn phải quan tâm khắc phục những nhược điểm của
giọng là những nhược điểm xuất hiện trong âm sắc.
Âm sắc của giọng hát có một nhiệm vụ rất quan trọng đó là thơng
qua những tiêu chí chuẩn mực của âm sắc để định hướng cho những chất
lượng của một số hoạt động cần thiết trong học tập kỹ thuật, chẳng hạn:
Chất lượng của âm sắc sẽ quyết định sự đúng sai khi phát triển giọng hát.
Một giọng hát có những biểu hiện sai như: giọng cổ, giọng mũi…là biểu
hiện sự không đúng, không chuẩn về mặt kỹ thuật, cần phải nghiêm túc kịp
thời điều chỉnh lại. Nói tới vấn đề này để khẳng định tầm quan trọng của
âm sắc, ý nghĩa mang tính định hướng trong việc luyện tập phát triển tính
chuyên nghiệp của giọng hát, đặc biệt đối với những giọng Soprano Việt
19
Nam. Đối với giọng Colorature Soprano thì âm sắc vơ cùng quan trọng, âm
sắc giúp nhận diện được nét đặc trưng cơ bản của giọng này [giọng hát
sáng, tính chất bay, vang xa].
1.2.1.3. Âm vực
Âm vực là khoảng cách từ nốt thấp nhất đến nốt cao của giọng hát hay
của một nhạc cụ. Giọng hát như người ta thường nói là một “nhạc cụ sống”,
nó mang đậm bản sắc cá tính của mỗi ca sĩ. Các ca sĩ chuyên nghiệp muốn đạt
trình độ cao thì phải có q trình rèn luyện nghiêm khắc trong đó có mục tiêu
mở rộng âm vực cho giọng hát của mình.
Sự phân định âm vực giúp xác định thể loại giọng hát, nhiều giọng
Colorature Soprano có thể mở rộng ở những quãng cực cao hoặc cực trầm để
đáp ứng yêu cầu của những tác phẩm chuyên nghiệp dành cho giọng này. Ở
giai đoạn đầu của đào tạo việc mở rộng âm vực sẽ khó nhưng qua thời gian
rèn luyện nghiêm túc và đúng hướng, người học sẽ đạt được tới giới hạn đó.
1.2.2. Các loại giọng Soprano
Như đã trình bày, giọng Soprano bao gồm nhiều loại với những đặc
trưng khác nhau, để có sự phân biệt rõ hơn về loại giọng Colorature Soprano,
dưới đây chúng tơi sẽ phân tích rõ từng loại giọng để giúp người dạy xác
định, phân loại giọng được chính xác và hiểu hơn khả năng ca hát của từng
loại giọng.
1.2.2.1. Dramatic Soprano
Theo cuốn Thuật ngữ âm nhạc Dramatic Soprano “là giọng nữ cao hý
kịch” [12, tr. 156]. Đây là loại nữ cao có âm lượng khổng lồ, khỏe khoắn và
nội lực. Loại giọng này đặc trưng nhất ở sức chịu đựng bền bỉ khi phải hát ở
cường độ lớn liên tục trên quãng cao. Âm vực từ nốt A3 - C6, D6, có khả
năng hát xúc cảm cả những bè của giọng nữ trung.
20
Một số nữ cao kịch tính tiêu biểu: Birgit Nilsson, Kirsten Flagstad,
Jessye Norman, Ghena Dimitrova, Patti Labelle, Monica Naranjo…Giọng
Dramatic Soprano rất ít thấy xuất hiện, thường chỉ có giọng Colorature
Soprano [nữ cao màu sắc], Lirico Colorature Soprano [nữ cao trữ tình màu
sắc], Light Lirico Soprano [nữ cao trữ tình sáng mảnh], đây là đặc điểm
GV cần chú ý để tránh nhầm lẫn khi giao tác phẩm cho SV.
1.2.2.2. Lirico Soprano
Theo cuốn Thuật ngữ âm nhạc, Lirico Soprano “là giọng nữ cao trữ
tình” [12, tr 156]. Loại giọng này đặc trưng bởi sự nhẹ nhàng, mềm mại, nữ
tính, âm lượng vừa phải. Nữ cao trữ tình được chia làm hai loại.
Nữ cao trữ tình đầy đặn [Full lirico Soprano]
Loại nữ cao này phát triển mạnh mẽ ở quãng trung và cận cao, cao hơn
vài nốt so với giọng nữ trung [mezzo Soprano]. Tuy vẫn có sự mềm mại, trữ
tình nhưng âm sắc dày, đầy đặn, ấm áp, có thể hát nội lực, căng tràn ở quãng
cận cao.
Giọng hát tiêu biểu cho loại này có thể kể tới: Monserrat Caballe, Anna
Netrebko, Angela Gheorghiu, Mirella Freni, Lara Fabian, Celine Dion, Ruthie
Henshall, Ock Joo Hyun, Lee Young Hyun, Linda Eder… ; Ở Việt Nam, loại
giọng này có các nghệ sĩ như: Siu Black, Bích Việt, Hà Phạm Thăng Long…
Nữ cao trữ tình sáng mảnh [Light Lirico Soprano]
Loại giọng này có âm sắc sáng, mảnh và nhẹ nhất, đặc biệt phát triển ở
quãng cao nên có thể hát nốt cao trên E5 dễ dàng, liên tục hơn.
Điển hình cho loại giọng này là: Kathleen Battle, So Hyang, Cyndi
Lauper, Madonna [thời debut], Jessica Simpson, Lee Heari, Diana Ross…;
Tại Việt Nam, loại giọng này có các nghệ sĩ: Lê Dung, Tường Vy, Ngọc
Tuyền; Khánh Ngọc...
1.2.2.3. Nữ cao trữ tình kịch tính [Spinto Soprano]
Đây là giọng Lirico Soprano có thể chuyển thành kịch tính ở những
đoạn cao trào. Loại giọng này hát trữ tình ấm áp, đầy đặn nhưng khi lên cao
21
lại khỏe khoắn, đanh dày, âm lượng lớn, có màu kịch tính, phát triển mạnh ở
quãng trung và cận cao.
Điển hình cho loại giọng này là: Leontyne Price, Renata Tebaldi,
Whitney Houston, Cissy Houston… Ở Vệt Nam chưa có ca sĩ nào hát loại
giọng này.
1.2.2.4. Nữ cao màu sắc [Colorature Soprano]
Là loại giọng nữ cao nhất, có âm sắc nhẹ nhàng linh hoạt, trong sáng,
có khả năng hát tốt những đoạn nhạc passage [lướt nhanh nhiều nốt], hát
những Staccato [âm nẩy] ở âm khu cao. Giọng Colorature Soprano khơng
có âm lượng mạnh, nhưng âm thanh lại có tính chất “bay”, vang xa.
Colorature Soprano được chia thành hai nhánh:
Nữ cao trữ tình màu sắc [Lirico Colorature Soprano]
Giọng hát mềm mại uyển chuyển, âm khu cao rất sáng, giọng hát có
tính “bay”, cho phép thực hiện những kỹ thuật phức tạp, những quãng rộng,
âm thanh vang trên toàn bộ âm vực.
Tiêu biểu cho giọng hát này như: Sumi Jo, Mariah Carey, Lily Pons,
Mado Robin, Mady Mesple, Anna Moffo, Beverly Sills…; Tại Việt Nam,
nhiều ca sĩ có giọng hát này, có thể kể tên: Bích Thủy, Lan Anh, Hồng Vy...
Nữ cao kịch tính màu sắc [Dramatic Colorature Soprano]
Loại giọng này có âm lượng lớn, một chút độ dày, metallic và hơi đanh,
sắc lạnh nhưng cũng vô cùng linh hoạt trên quãng cao.
Tiêu biểu cho loại giọng này là Joan Sutherland, Edda Moser, Cristina
Deutekom, Keke Wyatt… Việt Nam khơng có loại giọng này.
Như vậy, cùng là giọng Soprano nhưng lại có sự phân chia cụ thể thành
từng nhánh nhỏ dựa vào màu sắc, âm khu, âm vực của giọng hát. Trong đào
tạo TN, việc hiểu và phân biệt từng loại giọng là việc làm rất quan trọng để
mang lại hiệu quả đào tạo cao.
1.2.3. Vị trí, vai trò của giọng Soprano trong lịch sử phát triển nghệ
thuật thanh nhạc