Chủ thể có bản trong mô hình taxi công nghệ Grab ở Việt Nam

Từ quan điểm cấp tiến của Bộ Thông tin và Truyền thông

Trong Công văn số 1485/BTTTT-CNTT trình Thủ tướng Chính phủ, Bộ TT&TT đề xuất nên coi những đơn vị cung cấp nền tảng [platform] như Grab, Uber… là những chủ thể riêng biệt, ngoài những chủ thể được quy định hiện nay.

Công văn này nhằm góp ý cho Dự thảo Nghị định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải hành khách bằng xe ô tô [thay thế Nghị định 86/2014/NĐ-CP] do Bộ GTVT xây dựng.

Theo đó, Bộ TT&TT lập luận rằng, đối với hoạt động kinh doanh taxi truyền thống có 3 chủ thể có vai trò chi phối chính là công ty vận tải taxi, người dân và cơ quan quản lý. Thông qua sự xuất hiện của các đơn vị cung cấp nền tảng như Grab, hoạt động kinh doanh taxi đã xuất hiện thêm chủ thể thứ 4 là đơn vị cung cấp nền tảng. Bộ TT&TT cho rằng, chủ thể thứ 4 này cần được quản lý theo một mô hình mới, “không quy chiếu vào những chủ thể theo mô hình truyền thống”.

Câu hỏi đặt ra là, mô hình mới này cần và nên như thế nào, do bộ, ngành nào chịu trách nhiệm xây dựng, theo định hướng ra sao? Bởi trong khi chúng ta còn loay hoay xác định “mô hình mới”, thì những nền tảng như Grab đã kịp phát triển và mở rộng ra hàng loạt dịch vụ khác ngoài giao thông vận tải.

Cũng cần xác định rõ, mô hình sandbox này chỉ bó hẹp trong phạm vi ngành vận tải, hay là bao trùm lên tất cả những lĩnh vực kinh tế khác mà những chủ thể như Grab đang hiện diện, ví dụ như trung gian thanh toán, cho vay tín dụng, nhà hàng, giao hàng nhanh, cổng thông tin giải trí, hay thậm chí là mạng xã hội sơ khai?

Nói cách khác, cơ quan quản lý sẽ cho phép “sandbox” Grab riêng trong lĩnh vực vận tải, hay là cả các ngành nghề khác nữa. Điều đáng lưu ý là một số ngành nghề trong số này, đặc biệt là trung gian thanh toán, cho vay tiêu dùng và cung cấp thông tin là những ngành nghề kinh doanh có điều kiện theo quy định hiện hành.

Liệu câu thần chú “sandbox” có giúp các nhà cung cấp nền tảng như Grab đạt được một cơ chế quản lý riêng dễ thở hơn so với gần 30 trung gian thanh toán nội địa đã được cấp phép, hay các nhà cung cấp dịch vụ nội dung thông tin - mạng xã hội Việt Nam hay không?

Nếu câu trả lời là có, tức là kể cả trong những ngành nghề này, Grab vẫn được xem xét như một chủ thể riêng biệt, tách bạch với hành lang pháp lý hiện hành, thì các bộ, ngành sẽ quản lý các nhà cung cấp nền tảng như Grab, Go Việt thế nào?

Cụ thể, trong lĩnh vực cổng thông tin điện tử, nội dung sẽ được đảm bảo và có cơ chế quản lý ra sao, khi mà Grab là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hoạt động xuyên biên giới như Google, YouTube hay Facebook. Trong trường hợp Google, Facebook, YouTube cũng muốn được xem là các chủ thể riêng biệt vì “đem lại nhiều lợi ích mới cho xã hội, thúc đẩy cạnh tranh, chất lượng của các hoạt động kinh tế số” giống như Grab, thì chúng ta sẽ ứng xử ra sao?

… Đến thực tiễn sinh động đáng lo ngại

Trong công văn, Bộ TT&TT khẳng định, cần tăng khả năng cạnh tranh cho những mô hình taxi truyền thống, thay vì giảm khả năng cạnh tranh của những mô hình taxi công nghệ.

Song, một thực tế khó phủ nhận là rất nhiều doanh nghiệp truyền thống của Việt Nam đang phải chịu sự “bảo hộ ngược”, tức là chịu rất nhiều ràng buộc, quản lý của quy định hiện hành, trong khi các doanh nghiệp xuyên biên giới, doanh nghiệp nước ngoài thì hầu như không phải tuân thủ những quy định này, dù hoạt động phát sinh doanh thu khủng tại Việt Nam.

Chấm dứt được tình trạng “bảo hộ ngược” đã là một việc không dễ, chứ chưa nói đến tăng khả năng cạnh tranh cho các mô hình truyền thống ra sao, khi mà luật chơi không giống nhau và cuộc chơi không hề bình đẳng. Chỉ khi nào tất cả các đối thủ đều được chơi cùng một luật chơi, thì khi đó, những mô hình truyền thống may ra mới tăng được khả năng cạnh tranh mà thôi, nhất là khi các mô hình công nghệ xuyên biên giới có ưu thế vượt trội cả về nguồn lực, kinh nghiệm lẫn công nghệ.

Hành lang pháp lý cho doanh nghiệp xuyên biên giới

Tương tự, trong lĩnh vực trung gian thanh toán - một lĩnh vực liên quan mật thiết tới huyết mạch của nền kinh tế, ảnh hưởng lớn tới an ninh tiền tệ quốc gia, nếu tạo ra một cơ chế “sandbox” cho hoạt động xuyên biên giới và chưa có giấy phép rõ ràng của Grab [thông qua thương vụ hợp tác nhiều dấu hỏi với Moca mà Báo Đầu tư từng phản ánh], chúng ta sẽ phải chấp nhận một tiền lệ cho rất nhiều ví nước ngoài xuyên biên giới khác thâm nhập Việt Nam thông qua hình thức này.

Khi đó, cơ quan chức năng, mà cụ thể ở đây là Ngân hàng Nhà nước và cơ quan thuế đã có đầy đủ cơ chế và công cụ để giám sát dòng tiền luân chuyển xuyên biên giới, ghi nhận thuế, cũng như đảm bảo an ninh tiền tệ - điều tiết kinh tế vĩ mô hay chưa?

Nếu câu trả lời là chưa có hành lang pháp lý cho mô hình ví xuyên biên giới, thì lúc này, Ngân hàng Nhà nước sẽ phải làm gì để Grab không trở thành tiền lệ. Được biết, cơ quan này đang soạn thảo nghị định thay thế Nghị định 101/2012/NĐ-CP của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt. Một nội dung rất quan trọng của dự thảo này là vấn đề room sở hữu nước ngoài trong các trung gian thanh toán Việt Nam, với tỷ lệ cụ thể còn bỏ ngỏ.

Là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện, với tầm quan trọng như huyết mạch của nền kinh tế và ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh tiền tệ quốc gia, việc đảm bảo năng lực điều tiết, giám sát và kiểm soát hoạt động của các trung gian thanh toán thông qua quy định về sở hữu nước ngoài là việc làm rất cần thiết. Mức 30% của các ngân hàng thương mại cổ phần hiện hành là một tỷ lệ tốt để tham chiếu. Hoặc có thể tham khảo trường hợp cụ thể mà một số nước đã áp dụng quy định room tương tự trong lĩnh vực tham chiếu, thí dụ như Indonesia.

Tháng 5/2018, Ngân hàng Trung ương Indonesia quy định mức trần tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong các trung gian thanh toán không được vượt quá 49%. Cơ quan này cũng từ chối không cấp giấy phép trung gian thanh toán cho GrabPay từ năm 2017. Ngoài GrabPay, một số ví nước ngoài khác như TokoCash [của Tokopedia] hay BukaDompet [của Bukalapak] cũng đều không được cấp phép tại Indonesia.

Để ngăn chặn tình trạng các ví nước ngoài lách luật, mua bán, chuyển nhượng giấy phép trung gian thanh toán, Ngân hàng Trung ương Indonesia quy định rõ giấy phép sẽ có giá trị trong 5 năm và các tổ chức tín dụng không phải ngân hàng mà cung cấp dịch vụ tài chính không được phép thực hiện các hành vi làm thay đổi cổ đông kiểm soát trong 5 năm kể từ thời điểm được cấp giấy phép.

Sự hiện diện ngày càng sâu và mở rộng chóng mặt của những nền tảng như GrabPay tại Đông Nam Á cho thấy, các chính phủ càng chậm trong việc quy định room sở hữu nước ngoài trong lĩnh vực trung gian thanh toán, thì việc thoái vốn nước ngoài ở những trung gian thanh toán đã vượt rào sẽ càng khó khăn.

Thực tế trên thị trường Việt Nam hiện nay, số trung gian thanh toán được cấp phép có tỷ lệ vốn nước ngoài vượt 50% [cũng tức là nước ngoài nắm quyền kiểm soát] không hề ít. Đơn cử như 1Pay đã bán hơn 90% cổ phần cho Ascend Money [Thái Lan], Nganluong.vn bán 50% cổ phần cho MOL Malaysia, Payoo có hơn 64% cổ phần thuộc sở hữu nước ngoài, hay rùm beng nhất là VNPT E-Pay, đơn vị trung gian thanh toán có liên quan đến đường dây đánh bạc trái phép ngàn tỷ RikVip có tới 63% cổ phần trong tay nhà đầu tư nước ngoài. 

Để nhắc lại, một cách chính thức, Grab chỉ công bố đã mua lại hơn 3% cổ phần của Moca, tuy nhiên, với việc có tới 2 thành viên trong Hội đồng Quản trị của Moca đến từ Grab ngay sau thương vụ nói trên đã khiến nhiều người đặt dấu hỏi về vai trò thực sự của Grab tại Moca.

Làm rõ thêm về bản chất của các loại hình vận tải ứng dụng phần mềm

Trong Công văn số 1354/BTP - PLDSKT, Bộ Tư pháp đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, chỉnh sửa khá nhiều quy định tại Dự thảo Nghị định về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ô tô [thay thế Nghị định số 86/2014/NĐ-CP].

Theo đó, Bộ Tư pháp nhất trí với việc bổ sung quy định để quản lý các doanh nghiệp kinh doanh vận tải bằng xe taxi đã ứng dụng phần mềm điều hành thay thế cho phương pháp điều hành truyền thống [sử dụng bộ đàm], khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới công tác quản lý, điều hành xe taxi nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng hiệu quả kinh doanh và tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, Bộ Tư pháp đề nghị cơ quan soạn thảo cần nghiên cứu làm rõ thêm về bản chất của các loại hình vận tải ứng dụng phần mềm Grab, Uber... để có quy định quản lý cho phù hợp, bảo đảm nguyên tắc cạnh tranh công khai, công bằng, minh bạch.

Bộ Thông tin và Truyền thông vừa có công văn gửi Thủ tướng Chính phủ và Bộ Giao thông Vận tải nêu ý kiến đối với hoạt động kinh doanh vận tải hành khách bằng xe ô tô dưới 9 chỗ, trong đó đề xuất coi những đơn vị cung cấp nền tảng [platform] như Grab , Go-Viet là một chủ thể riêng biệt, không quy chiếu vào những chủ thể theo mô hình truyền thống.

Nêu ý kiến đối với hoạt động kinh doanh vận tải hành khách bằng xe ô tô dưới 9 chỗ, Bộ Thông tin và Truyền thông cho rằng: Để tạo điều kiện cho công nghệ số có khả năng đem lại nhiều lợi ích mới cho xã hội, đặc biệt là thúc đẩy cạnh tranh, qua đó nâng cao hiệu quả, chất lượng của các hoạt động kinh tế, các nước trên thế giới như Anh, Đức, Singapore, Indonesia… đều đã nỗ lực xây dựng và thực hiện các mô hình, phương thức quản lý mới. Tại Việt Nam, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ cũng đã chỉ đạo các Bộ, ngành nghiên cứu xây dựng các khuôn khổ pháp lý mới để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo, thực hiện thí điểm chính sách quản lý các sản phẩm, mô hình kinh doanh mới có tính đột phá.

Trên quan điểm đó, Bộ Thông tin và Truyền thông đề xuất cần xem những đơn vị cung cấp nền tảng [platform] như Grab, Go-Viet… là một chủ thể riêng biệt, ngoài những chủ thể được quy định hiện nay.

Theo lập luận của Bộ, đối với hoạt động kinh doanh taxi truyền thống, có 3 chủ thể có vai trò chi phối chính: Công ty vận tải taxi, Người dân, và Cơ quan quản lý Nhà nước.

Thông qua sự xuất hiện của các đơn vị cung cấp nền tảng, hoạt động kinh doanh taxi có 4 chủ thể chính: Công ty vận tải [hoặc hợp tác xã vận tải], Đơn vị cung cấp nền tảng, Người dân, và Cơ quan quản lý Nhà nước.

Trong đó, Công ty vận tải và Đơn vị cung cấp nền tảng kết hợp cung cấp cho người dân một loạt dịch vụ tương đương taxi. Công ty vận tải và đơn vị cung cấp nền tảng không tự mình thực hiện tất cả những công đoạn mà taxi truyền thống thực hiện mà mỗi chủ thể thực hiện một số công đoạn của taxi.

Trên cơ sở những lợi ích thật sự mà mô hình kinh doanh mới đem lại cho người dân và được xã hội thừa nhận rộng rãi [như minh bạch về giá cước và lộ trình, giá cước phù hợp với nhu cầu của người dân, chất lượng phục vụ được nâng cao], cần nhìn nhận đơn vị cung cấp nền tảng như một chủ thể riêng biệt, không quy chiếu vào những chủ thể theo mô hình truyền thống.

Cần tăng khả năng cạnh tranh cho những mô hình taxi truyền thống thay vì giảm khả năng cạnh tranh của những mô hình taxi sử dụng công nghệ", công văn của Bộ Thông tin và Truyền thông nêu rõ.

Bộ cho rằng, việc yêu cầu gắn biển điện tử đối với các xe hợp đồng dưới 9 chỗ trong dự thảo Nghị định sẽ làm giảm sự sẵn sàng tham gia của các đơn vị vận tải, đưa thị trường kinh doanh taxi trở lại thời điểm trước khi xuất hiện loại hình kinh doanh sử dụng công nghệ.

Thay vào đó, cơ quan quản lý có thể tăng tính cạnh tranh cho các đơn vị kinh doanh taxi truyền thống bằng các quy định mới phù hợp. Ví dụ: Nếu khách hàng đặt taxi truyền thống thông qua phần mềm của hãng, khi mà các điều kiện minh bạch về lộ trình và giá cước được đảm bảo, thì cũng cho phép hãng taxi và khách hàng có thể thỏa thuận giá cho phù hợp với nhu cầu ở thời điểm đó, thay vì sử dụng giá niêm yết. Giá niêm yết vẫn tiếp tục áp dụng cho trường hợp khách vẫy và vận chuyển theo đồng hồ.

Làm thế nào để quản lý các đơn vị cung cấp nền tảng?

Bộ Thông tin và Truyền thông cho rằng để quản lý nhà nước đối với những hoạt động kinh doanh sử dụng công nghệ, cơ quan chức năng cần sử dụng chính công nghệ để quản lý và giảm sát.

Bộ đưa ra gợi ý thay vì yêu cầu đơn vị kinh doanh vận tải sử dụng hợp đồng điện tử có "Bảng đèn hiệu" hoặc biển số khác màu, cơ quan quản lý hoàn toàn có thể yêu cầu đơn vị cung cấp nền tảng đảm bảo khả năng truy cập vào dữ liệu những xe vận tải đang tham gia trong mô hình.

Một trường hợp khác, cơ quan quản líýcó thể yêu cầu đơn vị nền tảng chỉ đề xuất lộ trình cho xe hợp đồng đúng quy định về tuyến đường và thời gian vận chuyển... Tất cả lộ trình phải được lưu lại để truy xuất trong trường hợp thanh, kiểm tra. Đây là một hình thức dùng công nghệ để thực hiện hậu kiểm thay vì tiền kiểm.

Định nghĩa chính xác của Grab, Go-Viet

Bộ Thông tin và Truyền thông đề xuất bổ sung nội dung "giải thích từ ngữ" trong dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 86/2014/NĐ-CP như sau: "Đơn vị cung cấp nền tảng kinh doanh vận tải là đơn vị kết nối giữa đơn vị vận tải và hành khách, sử dụng công nghệ số giúp hành khách có nhu cầu vận tải tìm được đơn vị vận tải có khả năng cung cấp. Tất cả các giao dịch đều diễn ra trong môi trường số".

Về quy định quản lý, Bộ Thông tin và Truyền thông đề xuất bổ sung thêm một số nội dung quản lý cho chủ thể mới này như:

- Ghi nhận yêu cầu vận chuyển của khách hàng và chuyển yêu cầu vận chuyển đến ô tô hợp đồng phù hợp đang tham gia trong hệ thống;

- Thực hiện vai trò là đơn vị trung gian trong đàm phán về giá cước;

- Ghi nhận đánh giá của khách hàng về chất lượng phục vụ của tài xế, điều chỉnh hoạt động của tài xế dựa trên đánh giá của hành khách;

- Phải cung cấp công cụ giám sát cho các cơ quan chức năng có thẩm quyền để có thể kiểm tra, giám sát đối với các đơn vị vận tải tham gia nền tảng trong mọi thời điểm;

- Phải gửi hóa đơn điện tử của chuyến đi đến hành khách và đơn vị vận tải; gửi thông tin hóa đơn điện tử về Tổng cục Thuế theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính; bảo đảm minh bạch trong quá trình thanh toán đối với cơ quan chức năng có thẩm quyền và hành khách

Video liên quan

Chủ Đề