Ý nghĩa quốc tế của thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp TỪ 1945 ĐẾN 1954 là gì

Đất nước ta đứng trước muôn vàn khó khăn, thử thách. Theo thỏa thuận giữa các nước đồng minh thắng trận, quân đội Tưởng Giới Thạch vào đóng tại miền Bắc, quân Anh [theo sau là quân Pháp] vào đóng tại miền Nam Việt Nam làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật [lấy vĩ tuyến 16 làm ranh giới], nhưng đều nuôi dưỡng ý đồ tiêu diệt lực lượng cách mạng và Đảng Cộng sản Đông Dương, thành lập chính quyền phản động tay sai. Trong khi đó, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước rơi vào khủng hoảng trầm trọng: Sản xuất trì trệ, ngân khố quốc gia trống rỗng, nạn đói năm 1945 làm gần 2 triệu người chết chưa khắc phục xong, hơn 90% dân số mù chữ, tệ nạn xã hội còn rất phổ biến, các thế lực phản động ra sức hoạt động chống phá... "Giặc đói", "giặc dốt", "giặc ngoại xâm" đang đe dọa, vận mệnh dân tộc như "ngàn cân treo sợi tóc".

Với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, ngày 23/9/1945 được sự giúp đỡ của quân đội Anh, thực dân Pháp tiến công Sài Gòn mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Tiếp đó, từ tháng 10/1945 - 1/1946, quân Pháp tiếp tục đánh chiếm nhiều địa bàn quan trọng ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, từng bước thiết lập hệ thống kìm kẹp tại cơ sở. Trong bối cảnh đó, để tránh phải đương đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa một mặt nhân nhượng cho quân đội Tưởng Giới Thạch một số quyền lợi ở miền Bắc [nhận cung cấp lương thực, nhận tiêu tiền "quan kim", "quốc tệ" đã mất giá...], mặt khác kiên quyết phát động phong trào ủng hộ Nam Bộ kháng chiến, đưa hàng vạn cán bộ, chiến sĩ vào Nam chiến đấu, trực tiếp góp phần làm thất bại âm mưu "đánh nhanh, thắng nhanh" của thực dân Pháp.

Do gặp khó khăn ở chiến trường miền Nam, thực dân Pháp không đủ khả năng đánh chiếm ngay miền Bắc, buộc phải đàm phán với Tưởng Giới Thạch hòng tìm bước đi thích hợp. Cuối tháng 2/1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết. Theo đó, thực dân Pháp nhượng bộ cho Tưởng Giới Thạch một số quyền lợi kinh tế, chính trị, văn hóa... Ngược lại, quân Pháp sẽ ra miền Bắc thay thế quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật, nhưng thực chất là chờ viện binh phát động chiến tranh. Để nhanh chóng gạt quân Tưởng về nước, đồng thời có thêm điều kiện chuẩn bị tiềm lực, ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký với đại diện Chính phủ Pháp [Xanhtơni] bản Hiệp định sơ bộ, chấp thuận cho quân Pháp ra miền Bắc thay quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Tiếp đó, ngày 14/9/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với Chính phủ Pháp bản Tạm ước nhượng bộ cho Pháp thêm một số quyền lợi về kinh tế - văn hóa ở Việt Nam. Tranh thủ thời gian hòa hoãn, nhân dân ta ra sức xây dựng lực lượng. Ngày 22/5/1946, Chính phủ ra sắc lệnh quy định Vệ quốc đoàn chính thức trở thành Quân đội quốc gia nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngoài ra, cách mạng còn có gần 1 triệu đội viên thuộc lực lượng dân quân tự vệ khắp cả nước, tạo nền tảng vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh suốt chặng đường về sau.

Cuối năm 1946, sau khi có thêm viện binh, thực dân Pháp liên tục tiến hành các hành động khiêu khích. Tháng 11/1946, chúng chiếm đóng Hải Phòng, Lạng Sơn, chính thức gây ra cuộc chiến tranh xâm lược miền Bắc. Tại Hà Nội, từ đầu tháng 12/1946, quân Pháp liên tục dùng đại bác, súng cối bắn phá vào nhiều khu phố tàn sát dân thường... đưa quân chiếm một số trụ sở cách mạng. Đặc biệt, ngày 18 và 19/12/1946, thực dân Pháp đã liên tiếp gửi tối hậu thư buộc Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải phá bỏ công sự trong thành phố, giải tán lực lượng tự vệ, giao quyền kiểm soát Thủ đô cho chúng.

Trước âm mưu, hành động xâm lược của kẻ thù, nhân dân Việt Nam không có con đường nào khác là cầm súng chiến đấu để bảo vệ độc lập, tự do. Ngày 18 và ngày 19/12/1946, tại Vạn Phúc, Hà Đông [nay thuộc thành phố Hà Nội], Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, đề ra đường lối, quyết định cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chiều ngày 19/12/1946, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển đến các đơn vị lực lượng vũ trang mật lệnh về ngày và giờ của cuộc giao chiến trong toàn quốc. Khoảng 20 giờ ngày 19/12/1946, tín hiệu bắt đầu kháng chiến toàn quốc được phát ra, quân dân Thủ đô Hà Nội nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến toàn quốc. Ngay đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, trong đó Người khẳng định rõ: "Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa. Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ!"…

Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Sáng ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát đi khắp cả nước. Đó là lời hịch cứu nước, thể hiện ý chí quyết tâm sắt đá của cả dân tộc, khơi dậy sức mạnh chủ nghĩa yêu nước, truyền thống anh hùng bất khuất; động viên, thôi thúc, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta bước vào cuộc kháng chiến giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc.

Hưởng ứng Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chấp hành mệnh lệnh của Trung ương Đảng và Bộ Tổng chỉ huy, quân dân ta tại các thành phố, thị xã ở Bắc vĩ tuyến 16 có quân Pháp chiếm đóng đồng loạt nổ súng đánh địch. Chiến sự diễn ra rất quyết liệt, đặc biệt là trong các thành phố lớn. Ngay tại Thủ đô Hà Nội, dù lực lượng chênh lệch, vũ khí thô sơ chống lại kẻ địch tinh nhuệ được trang bị hiện đại, nhưng với tinh thần "Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh", đồng bào, chiến sĩ ta vẫn kiên cường bám trụ, giành nhau với địch từng căn nhà, từng góc phố. Cùng với Hà Nội, quân dân các địa phương khắp Bắc, Trung, Nam đã anh dũng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Cả dân tộc chung sức đồng lòng với ý chí sục sôi, niềm tin tất thắng. Trải qua gần 2 tháng liên tục chiến đấu và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu hao, giam chân địch trong thành phố, tạo điều kiện di chuyển các cơ quan, kho tàng, tổ chức nhân dân tản cư về vùng căn cứ xây dựng thế trận kháng chiến lâu dài, lực lượng ta rút về hậu phương an toàn.

Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng và tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Tổng Bí thư Trường Chinh đã xác lập đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính; trở thành ánh sáng soi đường cho dân tộc ta đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trên cơ sở đường lối đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại mọi âm mưu, kế hoạch xâm lược của thực dân Pháp, với đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu", buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Genevơ [năm 1954], chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Và 21 năm sau, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã cắm lá cờ trên nóc Dinh độc lập, kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đem lại độc lập thống nhất toàn vẹn cho đất nước.

Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta sau ngày 30/4/1975 đã đạt được những thành tự to lớn, quan trọng, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, đất nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức, nhất là trong bối cảnh đại dịch Covid-19 đã tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội của đất nước.

Kỷ niệm 75 năm Ngày Toàn quốc kháng chiến là dịp để chúng ta ôn lại và càng nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về chủ trương phát động toàn quốc kháng chiến của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh [19/12/1946]; phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, khơi dậy lòng tự hào, tự tôn dân tộc, quyết tâm vượt qua khó khăn, thách thức, nhất là tác động của đại dịch Covid-19 và thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước vì mục tiêu: "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Thanh Sang

Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Đảng đã trở thành Đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước. Tuy nhiên với âm mưu thâm độc – thực dân pháp với dã tâm xâm lược nước ta, khó khăn trong nước chưa được giải quyết thì khó khăn về giặc ngoại xâm ập đến.

Với tinh thần đoàn kết, truyền thống đấu tranh kiên cường bất khuất chống ngoại xâm, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã cùng nhau đứng lên để giữ nền độc lập của nước nhà. Qua bài phân tích sau đây tổng đài tư vấn Luật Quang Huy chúng tôi xin giải quyết về vấn đề: “Toàn quốc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược giai đoạn 1945-1954”.

Danh mục tài liệu tham khảo

  • Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2009.
  • Hội đồng biên soạn giáo trình quốc gia các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Giáo trình lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2004.
  • ThS. Trương Ngọc Thơi, Bồi dưỡng học sinh giỏi lịch sử lớp 12, Nxb ĐHQG Hà Nội.
  • “Chỉ thị của BCH trung ương Đảng về kháng chiến – kiến quốc, ngày 25/11/1945”, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8 [tr. 21 – 34], Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000.
  • “Chỉ thị hoà để tiến” của Ban thường vụ BCH trung ương Đảng ngày 9/3/1946, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8 [tr. 48 – 56], Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000.
  • “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 19/12/1946”, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8 [tr.160 – 161], Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000.

Hoàn cảnh lịch sử và nguyên nhân phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân pháp

Hoàn cảnh lịch sử trên thế giới

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình thế giới từng bước có những chuyển biến to lớn.

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thế giới bước vào thời kì tiền chiến tranh lạnh. Đó là sự đối đầu về quan hệ giữa hai cường quốc Xô-Mỹ. Liên Xô đứng đầu cho phe Xã hội chủ nghĩa, còn Mỹ đứng đầu phe Tư bản chủ nghĩa. Với mục tiêu và âm mưu thống trị thế giới, Mỹ luôn tìm cách ngăn chặn, tiêu diệt hệ thống xã hội chủ nghĩa.

Ở Đông Âu, nhân dân các nước Anbani, Ba lan, Bungari, Hungari, Nam Tư, Rumani, Tiệp Khắc đã lần lượt hoàn thành công cuộc cách mạng dân chủ nhân dân và bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đồng thời bước vào thời kì quá độ lên xã hội chủ nghĩa.

Hoàn cảnh lịch sử trong nước

Chính quyền cách mạng còn non trẻ mới được thành lập chưa kịp củng cố, chưa được nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao, cách mạng vẫn ở vào thế bị cô lập.

Thiên tai, nạn lụt lớn làm vỡ đê 9 tỉnh Bắc Bộ, tiếp theo là nạn hạn hán kéo dài làm cho hơn một nửa diện tích ruộng đất không thể cày cấy được.

Ngân sách kho bạc hầu như trống rỗng, kho bạc nhà nước chỉ có khoảng hơn 1,2 triệu đồng Đông Dương, trong đó có một nửa rách nát không lưu hành được.

Tàn dư văn hóa lạc hậu do chế độ thực dân phong kiến để lại hết sức nặng nề, hơn 90% dân số nước ta bị mù chữ, các tệ nạn xã hội cũ như mê tín dị đoan, rượu chè, cờ bạc, nghiện hút ngày đêm hoành hành.

Hơn một năm đầu sau cách mạng tháng Tám, cách mạng nước ta đứng trước tình thế “ ngàn cân treo sợi tóc”.

Nguyên nhân phát động toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp

Trái với thiện chí hòa bình của Việt Nam, thực dân Pháp vẫn ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, nuôi hi vọng giành thắng lợi bằng quân sự. với dã tâm cướp nước ta một lần nữa, chúng đã trắng trợn xé bỏ những điều đã cam kết với ta trong hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946 và Tạm ước ngày 14-9-1946.

Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp đã tập trung quân tiến công vào các phòng tuyến của quân ta đánh chiếm các phần tự do còn lại.

Ở Bắc Bộ, hạ tuần tháng 11-1946 Pháp cho quân khiêu khích tiến quân ta ở Hải Phòng, Lạng Sơn. Tháng 12-1946, chúng chiếm đóng trái phép ở Đà Nẵng, Hải Dương, đưa thêm viện binh đến Hải Phòng.

Ở Hà Nội, từ 15 đếb 16-12-1946, Pháp đã liên tiếp gây xung đột ở nhiều nơi. Đốt cháy nhà Thông tin ở phố Tràng Tiền, chiếm đóng cơ quan Bộ Tài chính, Bộ Giao thông Công chính, gây vụ thảm sát đồng bào ta ở phố Hàng Bún, phố Yên Ninh, cầu Long Biên..

Trắng trợn hơn, ngày 18 và 19-12-1946, Pháp còn gửi tối hậu thư buộc chính phủ ta phải giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, giao quyền kiểm soát thủ đô cho Pháp, chúng đe dọa nếu yêu cầu đó không được chấp nhận thì chậm nhất quân Pháp sẽ “hành động” vào sáng 20-12-1946.

Những hành động khiêu khích, xâm lược của Pháp đã làm cho nền độc lập, chủ quyền của nước ta bị đe dọa nghiêm trọng. Chính những hành động gây chiến của thực dân Pháp là nguyên nhân dẫn tới cuộc kháng chiến toàn quốc của nhân dân ta.

Toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược giai đoạn 1945 – 1954

Nội dung đường lối kháng chiến thực dân Pháp của Đảng.

Các văn kiện hình thành đường lối 

Ngày 12-12-1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”. Ngày 19-12-1946, chủ tịch Hồ Chí Minh ra “ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”. Từ tháng 3 đến tháng 9-1947, đồng chí Trường Chinh viết một số bài báo giải thích cụ thể về đường lối kháng chiến. Tháng 9-1947, được in thành sách với tiêu đề “ Kháng chiến nhất định thắng lợi”.

Từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951, Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương được tiến hành tại xã Vinh Quang [Chiêm Hóa, Tuyên Quang]. Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết, đã thông qua hai báo cáo quan trọng:

“Báo cáo chính trị” do chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày đã tổng kết kinh nghiệm của Đảng qua các chặng đường lịch sử đấu tranh cách mạng, khẳng định đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng. Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày báo cáo “Bàn về cách mạng Việt Nam”:

Xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại là: tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành độc lập, thống nhất hoàn toàn dân tộc.

Xóa bỏ những tàn dư phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Đại hội đã thảo luận và quyết định nhiều chính sách cơ bản trên mọi lĩnh vực như: củng cố chính quyền, xây dựng quân đội, củng cố mặt trận, phát triển kinh tế, tài chính, văn hóa…nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến về mọi mặt.

Đại hội quyết định tách Đảng Cộng sản Đông Dương để thành lập ở Việt Nam, Lào, Campuchia mỗi nước một Đảng Mác-Lenin riêng. Ở Việt Nam, Đại hội quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên là Đảng Lao động Việt Nam.

Đại hội thông qua Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ mới của Đảng và quyết định xuất báo Nhân dân làm cơ quan ngôn luận của Đảng.

Như vậy Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng là mốc đánh dấu bước phát triển mới trong quá trình lãnh đạo và sự trưởng thành, lãnh đạo của Đảng ta. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng, củng cố thêm niềm tin tất thắng vào cuộc kháng chiến, kiến quốc.

Toàn quốc kháng chiến chống thực dân pháp xâm lược giai đoạn 1945-1954.

Nội dung của đường lối kháng chiến thực dân Pháp của Đảng

Đảng xác định tính chất của cuộc kháng chiến: Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam mang tính chất dân tộc dân chủ nhân dân.

Kế thừa sự nghiệp của cách mạng tháng Tám: Cách mạng tháng Tám là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Nhiệm vụ hang đầu là chống đế quốc giành độc lập dân tộc, nhiệm vụ chống phong kiến có mức độ nhất định nhằm phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Lực lượng tham gia là cuộc vùng dậy của toàn dân tộc, được đoàn kết trong hình thức mặt trận Việt Minh. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 2-9-1945 là nhà nước toàn dân.

Nhiệm vụ của cuộc kháng chiến: Chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ nền độc lập cho Tổ quốc, đánh đổ hoàn toàn tàn dư của phong kiến để dành quyền dân chủ cho người dân.

Thực dân Pháp với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, chúng đã huy động lực lượng hùng mạnh và sự chuẩn bị kĩ lưỡng để tiến hành âm mưu đó. Đất nước ta với tư thế vừa giành được chính quyền nên còn non trẻ, giành được chính quyền đã khó, nay giữ chính quyền càng khó hơn. Vì vậy, nhiệm vụ hang đầu là toàn dân đứng dậy đồng long chống thực dân Pháp bảo vệ nền độc lập cho dân tộc. Sau đó đánh đổ hoàn toàn tàn dư của phong kiến để dành quyền dân chủ cho người dân.

Đảng xác định kẻ thù của cuộc kháng chiến là thực dân Pháp.

Sau cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công, quân đội các nước Đồng minh, với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, đã kéo vào nước ta. Ngoài Pháp, Nhật chưa rút quân thì quân Trung Hoa Dân Quốc, quân Anh đã kéo vào nước ta. Họ có danh nghĩa hợp pháp, là quân Đồng minh giải giáp quân đội Nhật Bản, nhưng tính chất chung là chống phá cách mạng Việt Nam.

Tuy trên đất nước lúc này một lúc có nhiều kẻ thù như vậy nhưng Đảng vẫn xác định kẻ thù nguy hiểm nhất là thực dân Pháp vì: Thực dân Pháp có âm mưu quay lại xâm lược Việt Nam. Ngay sau khi chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, Chính phủ Pháp đã thành lập một đội quân viễn chinh do tướng Locolec chỉ huy nhằm chiếm lại Đông Dương.

Được sự ủng hộ của quân Anh, ngày 23-9-1945, Pháp tiến công Sài Gòn, mở đầu cho cuộc xâm lược trở lại nước ta. Lợi dụng tình hình trên, các lực lượng phản cách mạng như Đại Việt, Torokit, bọn phản động trong các giáo phái ngóc đầu dậy làm tay sai cho Pháp. Như vậy với ý chí thực dân, cả trong tư duy và hành động, thực dân Pháp đã bộc lộ rõ dã tâm xâm lược Việt Nam.

Phân tích về âm mưu của các đế quốc đối với Đông Dương, Trung ương Đảng nêu rõ “ kẻ thù chính của ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng”.

Lực lượng của cuộc kháng chiến: Đảng xác định lực lượng của cách mạng là các giai cấp công nhâ, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ. Lực lượng này đoàn kết dưới mặt trận Liên Việt và dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân.

Phương hướng của cuộc kháng chiến: Sau khi làm cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân sẽ đưa đất nước quá độ đi lên Xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã dự báo được trước hướng đi của đất nước sau này. Đó là đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, là chế độ mà người dân được lên làm chủ, quản lí đất nước, để không còn bất công như xã hội Phong kiến-xã hội mà có những con người bị dìm dưới đáy xã hội.

Phương pháp của cuộc kháng chiến: Sử dụng lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang từng bước tấn công sinh lực địch và lấy quyền làm chủ.

Đoàn kết quốc tế: Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam với các giai cấp tầng lớp công nhân và nông dân trên thế giới, tranh thủ sự ủng hộ của phong trào dân chủ nhân dân trên thế giới và Việt Nam phải giúp đỡ Lào, Campuchia phát triển chiến tranh du kích. Việc giúp đỡ Lào, Campuchia phát triển chiến tranh du kích sẽ làm cho quân Pháp phân tán lực lượng trên ba mặt trận. Từ đó, giúp cho ta dễ dàng hơn trong việc đối phó với chúng.

Phương châm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp: Toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.

Tính chất toàn dân: Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta là cuộc cách mạng nhằm đánh đuổi bọn thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất đất nước.

Xuất phát từ tương quan lực lượng giữa ta và thực dân Pháp. Pháp là đội quân nhà nghề với nhiều kinh nghiệm trên chiến trường, với vũ khí tối tân hiện đại. Còn ta, sau cách mạng thang Tám ta đã tổn hại khá lớn lực lượng cách mạng. Ngoài ra còn xuất phát từ truyền thống “ toàn dân đánh giặc” của dân tộc ta từ thời dựng nước và giữ nước; từ quan điểm “ cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” của chủ nghĩa Mác-lenin, từ tư tưởng “chiến tranh nhân dân” của chủ tịch Hồ Chí Minh và chủ trương “ kháng chiến toàn diện” của Đảng ta.

Tính toàn diện: Vì địch không chỉ đánh ta trên mặt trận quân sự mà còn đánh ta trên các mặt trận kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, ngoại giao nên ta phải thực hiện cuộc kháng chiến toàn diện trên tất cả các lĩnh vực ấy. Ngoài ra kháng chiến toàn diện cũng là điều kiện để thực hiện kháng chiến toàn dân.

Tính chất trường kỳ kháng chiến: Kế thừa và phát huy truyền thống của dân tộc ta là: lấy ít đánh nhiều, lấy ít chống mạnh, lấy chính nghĩa thắng hung tàn, truyền thống đánh giặc lâu dài của dân tộc ta. Trường kỳ kháng chiến-nhằm đánh bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của thực dân Pháp và khắc phục tư tưởng chủ quan, nóng vội của một số Đảng viên.

Kháng chiến tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế: Vì ta hiểu rõ mối quan hệ giữa các yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó yếu tố chủ quan giữ vai trò quyết định nhất. Bởi vì có nỗ lực chủ quan mới phát huy hết sức mạnh của mình, mặc dù ta vẫn coi trọng sự hỗ trợ từ bên ngoài. Phải đem sức ta mà giải phóng cho ta, tránh ỷ lại vào bên ngoài, đồng thời phải ra sức tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế với tinh thần “cứu bạn là tự cứu mình”, nên cuộc kháng chiến của ta phải tự lực là chính.

Chiến thắng của nhân dân ta trên các chiến dịch với thực dân Pháp

Chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947

Thực hiện chỉ thị của Đảng, trên khắp các mặt trận, nhân dân ta đã anh dũng chiến đấu tiêu diệt nhiều sinh lực địch, từng bước phá vỡ vòng vây của địch ở nhiều nơi. Cuộc chiến đấu hơn hai tháng giữa ta và địch đã kết thúc bằng cuộc rút chạy của đại bộ phận quân Pháp ra khỏi Việt Bắc ngày 19-12-1947. Cơ quan đầu não của ta được bảo toàn.

Bộ đội chủ lực của ta đã trưởng thành. Chiến dịch Việt Bắc thu-đông 1947 đã giáng một đòn quyết định chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của thực dân Pháp, buộc chúng phải đánh lâu dài với ta. Đưa cuộc kháng chiến của nhân dân ta vào giai đoạn mới. Là mốc khởi đầu cho sự thay đổi tương quan, so sánh lực lượng giữa ta và địch có lợi cho cuộc kháng chiến của ta.

Chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950

Chiến dịch Biên giới thu-đông 1950 diễn ra từ ngày 16-9-1950 và thắng lợi kết thúc ngày 22-10-1950. Với chiến thắng này, con đường liên lạc của ta với các nước XHCN được khai thông; quân đội chủ lực của ta đã trưởng thành về mọi mặt, cơ quan đầu não của ta được bảo vệ. Sau chiến dịch Biên giới thu-đông 1950, quân ta giành thế chủ động chiến lược trên chiến trường chính, ngược lại thực dân Pháp vào thế bị động, đối phó với các đợt tiến công của ta.

Chiến dịch Điện Biên Phủ

Chiến thắng Điện Biên Phủ làm phá sản hoàn toàn kế hoạch Nava, giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo cơ sở tực lực đi đến Hiệp định Giơ-ne-vơ, buộc Pháp phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của ba nước Đông Dương là độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Kết quả, nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử

Nguyên nhân thắng lợi

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống pháp là nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh, với đương lối kháng chiến đúng đắn sáng tạo. Đường lối kháng chiến toàn dân toàn diện, trường kì, tự lực cánh sinh, kết hợp hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ phù hợp với điều kiện của đất nước. Đường lối đó đã phát huy được chỗ mạnh căn bản và khắc phục những nhược điểm, chuyển thế và lực của nhân dân ta từ yếu sang mạnh.

Toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một long, dung cảm trong chiến đấu, cần cù trong lao động sản xuất, góp phần vào chiến thắng của dân tộc.

Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp thắng lợi là nhờ có hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước, mặt trận dân tộc thống nhất được củng cố và mở rộng, lực lượng vũ trang sớm được xây dựng và không ngừng lớn mạnh, hậu phương rộng lớn, vững chắc về mọi mặt.

Cuộc kháng chiến chống pháp của nhân dân ta cùng với cùng với cuộc kháng chiến của nhân dân Lào, Campuchia, được tiến hành trong lien minh chiến đấu của nhân dân ba nước chống kẻ thù chung, có sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc, các nước dân chủ khác, của nhân dân Pháp và nhân loại tiến bộ trên thế giới.

Kết quả, ý nghĩa lịch sử

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, đồng thời chấm dứt ách thống trị của thực dân pháp gần một thế kỉ trên đất nước ta; miền Bắc được giải phóng, chuyển sang giai đoạn XHCN, trở thành căn cứ địa cách mạng của cả nước, là hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tạo điều kiện giải phóng mien Nam, thống nhất đât nước.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã giáng đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược, âm mưu nô dịch của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ 2, góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chúng.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta là nguồn cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ Latinh.

Tuy vậy, miền Nam nước ta chưa được giải phóng, nhân dân ta còn phải tiếp tục cuộc đấu tranh chống Mĩ nhằm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước.

Bài học kinh nghiệm

Thứ nhất, đề ra đường lối đúng đắn và quán triệt sâu rộng đường lối đó cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân thực hiện, đó là đường lối chiến tranh nhân dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài dựa vào sức mình là chính.

Thứ hai, kết hợp chặt chẽ, đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến và xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội, trong đó nhiệm vụ tập trung hang đầu là chống đế quốc, giải phóng dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng.

Thứ ba, thực hiện phương châm vừa kháng chiến vừa thực hiện chế độ mới, xây dựng hậu phương ngày càng vững mạnh để có tiềm lực mọi mặt để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cuộc kháng chiến.

Thứ tư, quán triệt tư tưởng chiến lược kháng chiến gian khổ và lâu dài, đồng thời tích cực chủ động đề ra và thực hiện phương thức chiến tranh và nghệ thuật quân sự sáng tạo, kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao, đưa kháng chiến đến thắng lợi.

Thứ năm, tang cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu và hiệu quả lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.

Như vậy với đường lối sáng tạo, đúng đắn của Đảng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954 đã hoàn toàn thắng lợi. Đẩy được bọn thực dân đã thống trị nước ta bấy lâu nay, tuy đang phải ngồi lên bàn đàm phán và còn tiếp tục đấu tranh với kẻ thù mới nhưng thắng lợi với thực dân Pháp đã cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân ta. Đặc biệt, cho ta thấy sức mạnh của sự đoàn kết, một lòng gìn giữ độc lập của dân tộc.

Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề: tìm hiểu về hợp tác hóa nông nghiệp ở miền bắc nước ta. Nếu trong quá trình giải quyết còn gì thắc mắc bạn có thể liên hệ chúng tôi qua tổng đài tư vấn luật qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.

Trân trọng./.

Video liên quan

Chủ Đề