Ưu NHƯỢC điểm phương pháp kể chuyện

Người thực hiện: Nguyễn Thị Xuân
Năm học: 2013-2014

MỤC LỤC

NỘI DUNG TRANG
A.PHẦN MỞ ĐẦU I.Lý do chọn đề tài II. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài

PHẦN B : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

I.Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn II. Thực trạng và nguyên nhân III.Một số biện pháp dạy học giúp học sinh kể chuyện tốt trong phân môn kể chuyện IV. Kết quả Phần C: Kết luận I.Bài học kinh nghiệm II.Kết luận III. Đề xuất và kiến nghị

Tài liệu tham khảo

2 2 3 5 5 7

11

19 22 22 22 24

26

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài Trong các môn học ở tiểu học, môn Tiếng Việt là môn có vị trí hết sức quan trọng. Nó cung cấp vốn ngôn ngữ, xây dựng nền tảng kiến thức. Nó còn là công cụ giúp cho học sinh học các môn khác. Đặc biệt phân môn kể chuyện là phân môn tổng hợp toàn bộ kiến thức đã học ở các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn. Với mục tiêu rèn học sinh kỹ năng nghe, đọc, nói trong đó kỹ năng nói là yêu cầu cơ bản khá trọng tâm ở phân môn kể chuyện. Qua mỗi tiết kể chuyện các em được tiếp xúc với một văn bản truyện, từ đó cảm nhận được nội dung và thu hoạch được những bài học bổ ích …Nhưng điều quan trọng hơn là các em  biết cách dùng từ ngữ, câu văn để diễn đạt một ý, liên kết các ý trong một đoạn, một bài. Đấy chính là yêu cầu rèn kĩ năng nói cho học sinh. Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi thấy dạy học sinh kể  được một câu chuyện hay, giàu cảm xúc là một kĩ năng khó của phân môn kể chuyện. Bởi vậy, hiệu quả giờ dạy kể chuyện còn rất hạn chế. Một phần người dạy còn chưa tìm ra quy trình và phương pháp dạy thích hợp. Hơn nữa đây là phân môn hoàn toàn khó đối với học sinh lớp1, 2.. Với đối tượng này vốn từ ít, kỹ năng diễn đạt còn hạn chế, các em đọc còn chưa lưu loát vì vậy ít nhiều hạn chế đến khả năng  diễn đạt bằng lời nói, lời kể và cách diễn xuất của mình qua từng đoạn chuyện, câu chuyện. Vì vậy, các em thiếu tính mạnh dạn, tính tự tin trong học tập .

… Để khắc phục tình trạng trên, nhiệm vụ đặt ra cho tôi là làm thế nào để các em kể tốt mọi câu chuyện trong môn kể chuyện? Vì những lý do trên tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài : “ Một số biện pháp dạy học giúp học sinh lớp 2A trường Tiểu học Lý Thường Kiệt  kể chuyện tốt trong phân môn kể chuyện ở lớp hai”, để góp phần nâng cao chất lượng học tập kể chuyện nói riêng và học Tiếng Việt nói chung trong nhà trường Tiểu học.

II. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài 
   1. Mục đích nghiên cứu – Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu, đề xuất những biện pháp góp phần vào đổi mới cách dạy học sinh kể chuyện trong phân môn Kể chuyện ở lớp 2. Từ cách đổi mới phương pháp dạy của thầy góp phần đổi mới cách học của trò. Phát huy hết khả năng tự phát hiện của học sinh thông qua cách tổ chức dạy học của giáo viên và cách học của học sinh. – Qua đề tài này tôi mong muốn được góp một phần nhỏ vào việc rèn luyện cho học sinh 2 kỹ năng chính: – Kĩ năng nói và kĩ năng nghe của học sinh.

2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Do thời gian nghiên cứu có hạn nên đề tài này tôi chỉ tập trung hướng tới giải quyết các nhiệm vụ sau: + Tìm hiểu thực trạng kể chuyện trong phân môn kể chuyện ở lớp 2 nói chung và lớp 2A nói riêng. + Đề xuất các giải pháp giúp giáo viên áp dụng một số phương pháp vào dạy học sinh kể tốt các câu chuyện trong phân môn Kể chuyện.

3. Đối tượng nghiên cứu:

– Hướng dẫn học sinh biết kể chuyện tốt câu chuyện trong phân môn kể chuyện.

4. Khách thể nghiên cứu

– 20 em học sinh lớp 2A, trường Tiểu học Lý Thường Kiệt

5. Phạm vi nghiên cứu

– Đề tài hướng dẫn học sinh học môn kể chuyện nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong môn Kể chuyện bao gồm các nội dung cụ thể sau: * Nghiên cứu kĩ nội dung sách giáo khoa, các loại sách tham khảo Tiếng Việt lớp 2 để giáo viên nắm chắc trọng tâm chương trình môn học * Điều tra tình hình thực tiễn những vấn đề có liên quan đến đề tài: + Trao đổi với đồng nghiệp để đánh giá khả năng kể chuyện của học sinh  để từ đó rút ra phương pháp và hình thức tổ chức dạy học  có hiệu quả. + Dự giờ giáo viên cùng khối để nắm phương pháp giảng dạy hướng dẫn học sinh kể chuyện để rút ra bài học kinh nghiệm quý báu. + Đề xuất một số giải pháp về hướng dẫn học sinh kể chuyện trong phân môn Kể chuyện. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cùng với kết quả nghiên cứu của đề tài.

6. Phương pháp nghiên cứu

+ Phương pháp thống kê. + Phương pháp trò chuyện. + Phương pháp đọc sách và tài liệu. + Phương pháp thực nghiệm. + Phương pháp phân tích, tổng hợp.

  B. PHẦN NỘI DUNG


I. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
1. Cơ sở lí luận Trong những năm gần đây, phong trào đổi mới phương pháp dạy học trong trường Tiểu học được quan tâm và đẩy mạnh không ngừng để ngay từ cấp Tiểu học, mỗi học sinh đều cần và có thể đạt được trình độ học vấn toàn diện, đồng thời phát triển được khả năng của mình về một môn học, nhằm chuẩn bị ngay từ bậc Tiểu học những con người chủ động, sáng tạo đáp ứng được mục tiêu chung của cấp học và phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước. Giáo dục Tiểu học là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng, đặt nền móng cho sự phát triển toàn diện con người, đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông. Vì vậy phương pháp dạy học ở bậc tiểu học có tầm quan trọng đặc biệt. Việc hình thành cho học sinh phương pháp học tập đúng đắn, hình thành nếp tư duy sáng tạo ngay từ khi các em bắt đầu đến trường phổ thông là một việc làm cấp thiết. Hiện nay. vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở bậc tiểu học đang diễn ra một cách sôi động, được nghiên cứu ứng dụng rộng rãi cả về lí luận cũng như về mặt thực tiễn. Việc dạy học theo hướng “ tích cực hóa người học” hay “hướng tập trung vào học sinh” tăng cường phương pháp dạy học tổ chức cho học sinh hoạt động để các em chiếm lĩnh kiến thức bằng chính hoạt động học của chính mình là định hướng cơ bản trong đổi mới phương pháp dạy học của Tiểu học. Trong các môn học ở tiểu học, môn Tiếng Việt là môn có vị trí hết sức quan trọng. Nó cung cấp vốn ngôn ngữ, xây dựng nền tảng kiến thức, ban đầu còn là công cụ giúp cho học sinh học các môn học khác. Đặc biệt là phân môn  Kể chuyện là phân môn tích hợp toàn bộ kiến thức đã học ở các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn. Với mục tiêu rèn học sinh kỹ năng nghe, đọc, nói trong đó kỹ năng nói là yêu cầu cơ bản khá trọng tâm ở phân môn Kể chuyện lớp 2.

2. Cơ sở thực tiễn

Kể chuyện là khả năng sử dụng ngôn ngữ ở dạng nói có tính nghệ thuật. Rèn kĩ năng nói cho học sinh nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dưỡng mà chương trình đề ra là một việc làm không dễ dàng, đòi hỏi giáo viên phải có sự đầu tư về thời gian và sự phối hợp chặt chẽ giữa các phân môn như phân môn Luyện từ và câu, phân môn Tập đọc và Tập làm văn. Kể chuyện không phải là phân môn duy nhất có nhiệm vụ rèn kĩ năng nói. Vì vậy chương trình Tiếng Việt tạo ra một quan hệ mật thiết  giữa phân môn kể chuỵên với phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu và Tập làm văn là một việc làm khoa học . Trong giờ kể chuyện, hầu như học sinh được phát huy tối đa khả năng nói của mình. Ngoài ra, để hình thành kĩ năng kể chuyện cho học sinh còn phụ thuộc vào phương pháp, hình thức tổ chức của giáo viên. Phân môn Kể chụyên trong chương trình Tiểu học đã đưa vào những phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp cho việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh. Một trong những lý do khiến trẻ rất thích giờ kể chuyện là các em được kể chuyện. Các nhà nghiên cứu cho thấy rằng: trẻ có nhu cầu rất lớn trong việc giao lưu với bạn, san sẻ những thu nhận mới lạ của mình.Vì được kể lại cho cô, cho bố mẹ, ông bà … nghe là một nhu cầu của học sinh Tiểu học. Để giúp các em thỏa mãn nhu cầu đó, ngoài việc vận dụng những hiểu biết về ngôn ngữ, lý thuyết sản sinh lời nói, giáo viên cần giúp học sinh vận dụng những hiểu biết về văn học, vận dụng năng lực cảm thụ văn học để lựa chọn cho mình giọng kể phù hợp. Ví dụ các em nhận biết được trong câu chuyện đâu là lời thoại, đâu là lời dẫn chuyện, các em sẽ có giọng kể khác nhau. Hay nếu các em cảm thụ tốt, hiểu được tâm trạng của các nhân vật, tính cách, hoàn cảnh của họ thì các em sẽ tìm được giọng điệu thích hợp với từng tâm trạng, từng tính cách mà có khi người lớn khó có thể hình dung được. Việc dạy cho học sinh  kể chuyện chính là quá trình giáo viên khơi dậy sự hiểu biết và cảm nhận của các em về người, vật và cuộc sống xung quanh. Điều đó đòi hỏi giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy để học sinh biết cách tổ chức câu, ý sao cho lô gic, cách sử dụng từ chính xác và hay khi kể một câu chuyện. Trong quá trình dạy học nhiều năm, tôi thấy nhiều chị em rất ngại dạy thao giảng môn học này, bởi lẽ dạy cho học sinh biết kể một câu chuyện hay rất khó vì phải chau chuốt cho học sinh từng câu, từng từ, phải nắm vững ngữ pháp Tiếng Việt, từ ngữ phải phong phú…, từ những nguyên nhân đó mà một số giáo viên chưa hứng thú dạy thao giảng phân môn Kể chuyện. Chính vì thế mà chất lượng kể chuyện của học sinh chưa cao [kể cả học sinh lớp lớn]. Ngược lại, nếu giáo viên có phương pháp và biện pháp dạy kể chuyện đặc biệt chú trọng đổi mới phương pháp dạy học, có tâm huyết với nghề sẽ giúp các em có hứng thú học và biết kể chuyện tốt hơn.

II.Thực trạng và nguyên nhân


1.Thực trạng
a.Thuận lợi – Trường Tiểu học Lý Thường Kiệt được nằm giữa trung tâm của xã EaM’nang, dân cư đông đúc, chủ yếu là người Kinh. Trường được sự quan tâm của các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương. Được sự quan tâm của sở, phòng giáo dục huyện nhà đã cung cấp đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học. – Ban giám hiệu luôn quan tâm tới việc chỉ đạo đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, chỉ đạo thực hiện công tác nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho thế hệ trẻ. Dạy học đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho học sinh. – Giáo viên tích cực tìm tòi đổi mới phương pháp, dạy học luôn luôn lấy học sinh làm trung tâm. – Lớp 2A rất thuận lợi được học 7 buổi trên tuần.  Đa số học sinh ngoan ngoãn, biết vâng lời thầy cô giáo.

b. Khó khăn

Năm học 2013-2014, tôi chủ nhiệm lớp 2A, tổng số học sinh là 20 em, nữ 9em, dân tộc thiểu số 1 em, con hộ nghèo và cận nghèo 5 em. 100% Học sinh bố mẹ làm nông nghiệp. Mặt bằng dân trí không đồng đều. Một số gia đình không quan tâm nhiều đến sự học tập của con em mình, sự học hành của con em họ thường  phó mặc cho nhà trường.

c. Điều tra thực trạng

– Hằng ngày, trên lớp, vào những giờ ra chơi, tôi thường xuyên chuyện trò với các em, hỏi han về gia đình, sở thích của các em, vừa tạo môi trường thân thiện, thân mật gần gũi giữa giáo viên và học sinh vừa tìm hiểu về cách giao tiếp bằng ngôn ngữ của các em. Qua những cuộc chuyện trò với học sinh tôi thấy khoảng hơn một phần ba số học sinh trong lớp đã chủ động đến để nói chuyện với cô. Số còn lại e dè không dám nói hoặc nói rất ít. Những em chủ động đến nói chuyện với tôi thì thấy các em diễn đạt ngôn ngữ có phần trôi chảy hơn những em nói ít. – Qua tất cả các giờ học trên lớp, tôi thường quan sát về thái độ học tập, về cách dùng từ ngữ, cách diễn đạt các câu trả lời của học sinh trong những tuần đầu của năm học, tôi thấy thực trạng của học sinh như sau: + Quan sát học sinh khi học môn tập đọc, số học sinh đọc đúng văn bản chỉ đạt 15 em đạt 75%,  số học sinh đọc diễn cảm không có. Số học sinh đọc bài chậm 5 em tỉ lệ 25%. – Qua quan sát học sinh ở lớp tôi và dự giờ các đồng chí giáo viên ở khối Hai phân môn kể chuyện, tôi thấy thực trạng của học sinh như sau: + Một số học sinh có học bài thì lên kể chủ yếu là đọc như một bài học thuộc lòng, thuộc vẹt.  Đặc biệt là kĩ năng kể chuyện của các em không có. Các em kể chuyện không biết hóa thân vào nhân vật. Lời kể của các em không diễn cảm, khô khan cứng nhắc. Còn đa số không thuộc bài và không biết kể chuyện. Khi gọi các em lên trước lớp để  kể thì đa số các em sợ sệt và không mạnh dạn, kiểu đứng để thể hiện câu chuyện còn ngại ngùng, không tự nhiên, thậm chí khi được gọi đến tên để lên kể có em còn không thích, còn có em  lên bảng nhưng ở mức độ gượng ép …Từ những khó khăn trên, tôi thấy mức độ hiểu bài, kể được chuyện của học sinh  nhìn chung không được đồng đều các em chưa thật tự giác trong học tập. Điều đó phần nào ảnh hưởng đến chất lượng chung, do đó qua thời gian học tháng đầu tiên tôi đã dành nhiều thời gian để kịp thời nắm bắt cụ thể việc tiếp thu bài, khả năng và mức độ kể chuyện của các em và kết quả ban đầu tôi khảo sát được thể hiện qua bảng thống kê số liệu sau : Kết quả điều tra giai đoạn 1 như sau:

Sau khi dạy xong  4 bài kể chuyện của 4 tuần tôi đã thu thập được thực trạng học tập phân môn kể chuyện của học sinh lớp 2A như sau:

T. gian Kết quả học sinh kể
Giai đoạn I
[Tháng 9]
Nắm n.dung câu chuyện Cách diễn đạt Cách thể hiện
Nắm nd Chưa nắm nd Thành câu Kể bằng lời mình Kể tự nhiên Kể không tự nhiên K.hợp cử chỉ, điệu bộ
TS % TS % TS % TS % TS % TS % TS %
10 50 10 50 5 25 0 0 5 25 15 75 0 0

Nhìn vào bảng thống kê trên chúng ta thấy thuộc nội dung câu chuyện của học sinh chỉ chiếm 50%. Khả năng diễn đạt của học sinh quá thấp, khả năng thể hiện kể kết hợp điệu bộ không có. Điều đó rất dễ thấy vì tiết kể chuyện chưa thực sự lôi cuốn và cuốn hút học sinh, chưa phát huy được tính tích cực của học sinh làm cho học sinh thụ động và phụ thuộc nhiều vào giáo viên  nên  không mang lại hiệu quả.  Từ thực trạng và kết quả điều tra trên, chúng ta thấy rằng nếu giáo viên dạy học không nhiệt tình, dạy học không lấy học sinh làm trung tâm, không phát huy tính tích cực, tính mạnh dạn của học sinh thì kết quả thu được không theo ý muốn. Vì vậy tôi đã đề ra một số giải pháp và biện pháp khắc phục để nâng cao chất lượng trong giờ kể chuyện .

d. Mặt mạnh, mặt yếu


* Mặt mạnh: Bản thân tôi đã có 17 năm trong nghề dạy học. Tôi là người luôn luôn tận tụy với công việc, yêu nghề, mến trẻ, luôn thích tìm tòi học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp, có ý chí phấn đấu, không sợ khó khăn gian khổ. Nhiều năm liền là giáo viên dạy giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, nhiều năm liền đạt chiến sĩ thi đua cấp cơ sở. Chính vì thế, tôi muốn đầu tư công sức để nghiên cứu đề tài này góp phần vào việc nâng cao hiệu quả dạy học phân môn kể chuyện có chất lượng cao. Ngoài nỗ lực của bản thân, tôi còn được các đồng chí đồng nghiệp giúp đỡ tạo điều kiện  thuận lợi như góp ý kiến, thao giảng cho tôi dự giờ lấy kinh nghiệm để tôi hoàn thành đề tài này.

* Mặt yếu: Thời gian để thực nghiệm chưa nhiều, nên phần nào kết quả học tập của học sinh chưa đạt tối đa như ý muốn. Trình độ viết sáng kiến còn hạn hẹp, câu từ để trình bày ý tưởng chưa được trau chuốt và làm sáng tỏ rõ trong đề tài, vì thế đề tài còn có nhiều khuyết điểm.


2. Nguyên nhân
a. Nguyên nhân khách quan Sau khi điều tra, tôi thấy những nguyên nhân chính ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng từ ngữ trong giao tiếp, thiếu tự tin khi kể chuyện trước đám đông, thiếu kĩ năng kể chuyện là do: ảnh hưởng tâm sinh lý lứa tuổi và ảnh hưởng của hoàn cảnh gia đình .

– Về tâm sinh lí lứa tuổi

Nguyên nhân chính là các em tuổi còn nhỏ. Các em mới học từ lớp Một lên lớp Hai vốn từ ngữ của các em còn hạn chế, thậm chí còn quá nghèo nàn ít ỏi. Cách giao tiếp bằng ngôn ngữ của các em chưa hoàn chỉnh, nói năng còn cộc lốc. Chính vì vốn từ ngữ còn hạn chế nên việc nói không thành câu, nói một câu ngắn còn lúng túng, lủng củng. chính vì thế mà các em ngại giao tiếp, ngại trình bày trước đám đông.

        – Về hoàn cảnh gia đình của học sinh

– Học sinh lớp 2A, do tôi chủ nhiệm, 100% con nhà làm nông nghiệp, dân trí thấp. Số hộ nghèo và cận nghèo khá nhiều [10 hộ], số gia đình còn lại mức sống cũng chỉ đủ ăn. Nhiều gia đình chưa có chỗ học riêng cho con cái. Cha mẹ các em chưa chú trọng đến việc rèn cho con mình nói năng, xưng hô như thế nào cho lễ phép, cho lịch sự. Con cái giao tiếp với ông bà, cha mẹ, anh chị em của mình đa số trả lời cụt ngủn chưa thành câu, lâu dần thành thói quen. – Mặt khác, do thực tế học sinh  được làm quen với phân môn kể chuyện chưa nhiều nên học sinh còn nhiều bỡ ngỡ, chưa có phương pháp học tập bộ môn một cách khoa học và hợp lí. Tài liệu tham khảo của các em chưa nhiều, đồ dùng dạy học, phương tiện chủ yếu là tranh trong sách giáo khoa. Chính vì lẽ đó một phần nào cũng ảnh hưởng đến việc giao tiếp của trẻ, nói chưa thành câu.

b.Nguyên nhân chủ quan

– Giáo viên chuẩn bị bài chưa thật tốt. – Thiếu sáng tạo trong việc tổ chức dạy học, phụ thuộc vào sách giáo khoa và sách giáo viên khi khai thác nội dung bài. – Giáo viên chưa chịu khó tìm hiểu về nhu cầu và khả năng của trẻ, chưa xây dựng cho mình một kế hoạch cá nhân đối với từng học sinh trong lớp. – Phát huy chưa hết tinh thần “ Trường học thân thiện, học sinh tích cực” Từ những thực trạng và những nguyên nhân nêu trên, qua nhiều năm giảng dạy, tìm tòi, tích lũy kinh nghiệm. Tôi mạnh dạn nêu ra một số giải pháp để có thể khắc phục tình trạng nêu trên và nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh trong phân môn kể chuyện có hiệu quả tốt hơn.

III. Một số biện pháp dạy học giúp học sinh kể chuyện tốt 

Từ những thực trạng đã nêu ở trên, trong quá trình giảng dạy, tôi thấy để các em kể tốt được một câu chuyện, cần phải chú ý tới các biện pháp sau:

1. Cung cấp, mở rộng và nhân vốn từ ngữ cho học sinh                                    


          a. Mục tiêu:  Cung cấp vốn từ giúp học sinh có vốn từ phong phú, để học sinh tự tin trong giao tiếp, khi kể chuyện các em có khả năng diễn đạt được trí tưởng tượng của mình trong từng câu truyện kể.
          b. Nội dung và cách thức thực hiện
Với lứa tuổi của các em học sinh lớp 2, vốn từ của các em còn nghèo nàn, việc sử dụng từ ngữ trong giao tiếp còn nhiều hạn chế. Hầu hết học sinh sử dụng từ ngữ chưa phù hợp, chưa chính xác. Vì vậy, tôi đã cung cấp vốn từ cho học sinh giúp các em lựa chọn, phân tích để sử dụng từ ngữ cho hợp lý. Khi dạy Luyện từ và câu tôi đã chú trọng mở rộng vốn từ cho học sinh, bằng cách cho các em thi nhau tìm những từ ngữ thuộc chủ đề, chủ điểm các em đang học, khuyến khích học sinh tìm càng nhiều từ càng tốt. Khi học sinh không tìm được từ nhiều, tôi đã nêu câu hỏi gợi mở để các em hiểu và dễ dàng tìm được. Bên cạnh đó, tôi đã giới thiệu, cung cấp thêm các từ đồng nghĩa, gần nghĩa, trái nghĩa phù hợp với chủ đề các em học.

– Chú trọng nhân vốn từ của học sinh.

– Chú trọng cách dùng từ đặt câu của học sinh. – Tăng cường củng cố, mở rộng kiến thức cho học sinh: + Trong quá trình giảng dạy, tôi thường liên hệ những nội dung kiến thức có liên quan đến các chủ đề học tập trong các phân môn: Tập đọc, Luyện từ và câu và phân môn Tập làm văn, để cung cấp thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ về sự vật, hiện tượng xoay quanh các chủ đề để học sinh có kiến thức, không bỡ ngỡ khi gặp những đề bài mới chưa được luyện tập trên lớp. Giúp học sinh có hiểu biết về đề tài, vận dụng kỹ năng thực hành để học sinh có vốn kiến thức và vốn từ phong phú, đa dạng. Khi học sinh đã có vốn từ phong phú thì chắc chắn các em sẽ tự tin trong giao tiếp, học sinh trình bày lời nói của mình sẽ lưu loát hơn. Các em đứng trước đám đông sẽ tự nhiên mà không ngại ngùng e sợ. Khi dạy tập đọc, tôi thường xuyên chú trọng rèn cho học sinh cách đọc diễn cảm, bởi học sinh đọc diễn cảm tốt thì sẽ kể chuyện diễn cảm tốt. Đối với những bài tập đọc có phân vai tôi thường cho học sinh thi nhau đọc phân vai để các em biết cách đọc hóa thân vào nhân vật, qua đó rèn các em có kĩ năng nói tốt hơn.

2. Tổ chức một số trò chơi trong giờ kể chuyện

Để tiết kể chuyện của học sinh có hiệu quả cần phải thường xuyên thay đổi phương pháp và hình thức học tập  tạo cho học sinh niềm vui cùng sự hứng thú trong  khi kể chuyện. Chính vì thế, trong các giờ kể chuyện tôi thường sử dụng một số trò chơi sau:

2.1. Thi sắp xếp ‎ đúng trình tự câu chuyện


a. Mục tiêu: Trau dồi khả năng ghi nhớ nội dung câu chuyện đã học, biết sắp xếp các ý‎ theo đúng trình tự diễn biến của câu chuyện trước khi tập kể. Rèn trí thông minh, nhanh nhạy trong việc nắm bắt và tái hiện các chi tiết trong câu chuyện một cách mạch lạc.
b. Nội dung và cách thức thực hiện  * Để thực hiện tốt trò chơi này giáo viên cần chuẩn bị: – Làm các phiếu bằng giấy trắng hoặc bằng bìa kích thước đủ ghi rõ các ‎‎ý tóm tắt theo từng đoạn của câu chuyện đã tập đọc, tạo thành một bộ phiếu cho nhiều nhóm cùng chơi, mỗi bộ phiếu đựng riêng từng hộp để lộn xộn không đúng trình tự, ngoài hộp để tên câu chuyện. Ví dụ: truyện Thầy giáo cũ- chia làm 6 phiếu ghi các ý dưới đây[ một bộ phiếu]

Phiếu 1

Giữa cảnh nhộn nhịp của giờ ra chơi, từ phía cổng trường bỗng xuất hiện một chú bộ đội. Chú là bố của Dũng. Chú tìm đến lớp của con mình để chào thầy giáo cũ.

Phiếu 2

– Thưa thầy em là  Khánh đứa học trò năm nào trèo cửa sổ lớp bị thầy phạt đấy ạ!

Phiếu 3

Vừa tới cửa lớp thấy thầy giáo bước ra, chú vội bỏ mũ lễ phép chào thầy. Thầy nhấc kính chớp mắt ngạc nhiên. Chú liền nói:

Phiếu 4

– Vâng thầy không phạt nhưng thầy buồn. Lúc ấy, thầy bảo” trước khi làm việc gì cần phải nghĩ chứ! Thôi em về đi thầy không phạt em đâu

Phiếu 5

Thầy giáo cười vui vẻ:
À Khánh. Thầy nhớ ra rồi. Nhưng… hình như hôm ấy thầy có phạt em đâu”

Phiếu 6

Giờ ra chơi đã hết. Dũng xúc động nhìn theo bố đi ra phía cổng trường rồi lai nhìn cái khung của sổ lớp học. Em nghĩ bố cũng có lần mắc lỗi, thầy không phạt, nhưng bố nhận đó là hình phạt và nhớ mãi. Nhớ để không bao giờ mắc lại nữa.

– Lập các nhóm cùng chơi[ mỗi nhóm có từ 4-5 em, số nhóm chơi bằng số bộ phiếu đã chuẩn bị.] – Chuẩn bị một số nam châm để học sinh lên gắn các phiếu lên bảng, một đồng hồ để quy định thời gian thi xếp ‎. – Giáo viên hoặc một học sinh khá giỏi làm trọng tài. Cách tiến hành: trọng tài chỉ định vị trí nhóm chơi sao cho nhóm này cách nhóm kia khoảng 2 m tránh để ảnh hưởng lẫn nhau khi xếp phiếu. Trọng tài nêu cách chơi và điều hành cuộc chơi: mỗi nhóm lên nhận bộ phiếu khi nghe lệnh “bắt đầu” mới được xem và sắp xếp các phiếu sao cho đúng trình tự nội dung câu chuyện. sau 3 hoặc 5 phút tùy trọng tài quy dịnh, dựa vào số lượng phiếu trong mỗi bộ các nhóm lên gắn phiếu theo trình tự đã sắp xếp, nhóm chưa thực hiện xong bị coi là thua cuộc, nhóm thực hiện nhanh và đúng được ghi nhận kết quả để xếp loại. Trọng tài cùng cả lớp đánh giá kết quả việc sắp xếp của các nhóm. Dựa vào kết quả trọng tài công bố các giải nhất, nhì.. Qua việc tổ chức hình thức thi vừa nêu ở trên, tôi thấy các em rất thích thú tham gia chơi, các em chăm học thuộc bài tập đọc hơn để đến giờ kể chuyện các em còn được thi sắp xếp câu chuyện cho nhanh và đúng. Qua đó, các em sẽ kể chuyện được  tự nhiên và hay hơn.

2.2. Thi đặt tên cho từng đoạn của câu chuyện 


a. Mục tiêu : Rèn kĩ năng tóm tắt ý bằng cách đặt tên cho từng đoạn của câu chuyện đã học trong sách giáo khoa Tiếng Việt 2. Hiểu được nội dung và ý nghĩa của từng đoạn của truyện. Luyện thói quen làm việc theo nhóm với tác phong  nhanh nhẹn, tinh thàn đoàn kết nhất trí.
          b. Nội dung và cách thức thực hiện * Để thực hiện tốt trò chơi này giáo viên cần chuẩn bị:

b1. chuẩn bị:

– Lập các nhóm từ 3 – 4 học sinh tham gia thi đặt tên cho từng đoạn của câu chuyện. Chuẩn bị vài tờ giấy khổ to, bút dạ đủ cho các nhóm tham dự cuộc thi, một số nam châm để đính giấy lên bảng. – Giáo viên hoặc một em khá giỏi điều khiển cuộc thi, cử ban giám khảo[ 2-3 em học sinh] để nhận xét đánh giá kết quả thi của từng nhóm. Mỗi giám khảo có 1 bộ bìa gồm 6 tấm, mỗi tấm bìa ghi một loại điểm[ 5,6,7,8,9,10] dùng để đánh giá kết quả thi của từng nhóm.

b2. Cách chơi

+ Người điều khiển cuộc chơi nêu yêu cầu thi và đánh giá kết quả: + Các nhóm nhận giấy, bút, nam châm, ngồi ở vị trí thi cách nhau 2-3 m để trao đổi và ghi kết quả vào tờ giấy khổ to. Sau 2-3 phút các nhóm phải dừng bút mang tờ giấy lên gắn trên bảng để ban giám khảo đánh giá. + Ban giám khảo có nhiệm vụ nhận xét và đánh giá kết quả đặt tên cho từng đoạn của câu chuyện theo các yêu cầu sau: Điểm 9-10: đặt đúng tên toàn bộ các đoạn của câu chuyện. Điểm 7-8: đặt đúng hầu hết tên các đoạn của câu chuyện[ chỉ sai hoặc chua rõ 1-2 tên đoạn. Điểm 5-6: đặt đúng khoảng ½ số tên các đoạn của câu chuyện. + Ban giám khảo chấm nhận xét kết quả đặt tên cho từng đoạn của câu chuyện, dựa vào điểm số để xếp giải nhất, nhì, ba.. Qua việc tổ chức hình thức dạy học trên, tôi thấy các em thể hiện tinh thần đoàn kết nhất trí theo nhóm. Phát triển trí thông minh nhanh, tiết học diễn ra vui vẻ, tạo nhiều hứng thú trong học tập, giúp các em kể chuyện tốt hơn.

2.3. Thi kể chuyện liên hoàn 


a. Mục tiêu: Rèn kĩ năng kể đúng, đủ ‎ý và mạch lạc từng đoạn của câu chuyện đã học trong sách Tiếng Việt 2. Luyện tập về cách kể từng đoạn của câu chuyện theo lối liên hoàn, biết phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các bạn trong nhóm để kể cho liền mạch và hấp dẫn
b. Nội dung và cách thức thực hiện  * Để học sinh thi kể chuyện liên hoàn tốt giáo viên cần chuẩn bị các bước sau: + Các nhóm xung phong thi kể chuyện liên hoàn[ mỗi nhóm có số người tham gia bằng số đoạn của câu chuyện sẽ kể. Ví dụ: truyện Có công mài sắt có ngày nên kim ở tuần 1 có 4 đoạn- mỗi nhóm có 4 học sinh tham gia, mỗi em kể một đoạn. + Cử 3 học sinh tham gia vào ban giám khảo. Mỗi giám khảo có 1 bộ bìa gồm 6 tấm, mỗi tấm bìa ghi một loại điểm[ 5,6,7,8,9,10] dùng để đánh giá kết quả thi của từng nhóm‎ + Câu chuyện nào có tranh ảnh minh họa hoặc bảng phụ ghi nội dung gợi ‎ý từng đoạn truyện giáo viên treo lên bảng. * Tiến hành cuộc thi: – Từng nhóm lên đứng trước lớp để chuẩn bị tham gia thi kể chuyện [mỗi em tham gia thi kể một đoạn theo thứ tự của câu chuyện đã học] – Giáo viên công bố tiêu chuẩn ghi điểm: + Cả nhóm biết phối hợp với nhau để kể được rành mạch, rõ ràng, đủ ‎ý chính toàn bộ câu chuyện: 10 điểm + Cả nhóm phối hợp với nhau, khá nhịp nhàng kể được tương đối rành mạch, rõ ràng, đủ ý chính toàn bộ câu chuyện [có thể mắc một hai lỗi nhỏ về diễn đạt hoặc về nội dung]: 9 điểm + Cả nhóm phối hợp với nhau chưa thật nhịp nhàng, kể được tương đối rành mạch, rõ ràng, đủ ý chính toàn bộ câu chuyện[ có thể mắc 3,4 lỗi nhỏ về diễn đạt hoặc về nội dung]: 8 điểm + Cả nhóm phối hợp với nhau chưa thật nhịp nhàng, tuy nhiên kể được tương đối khá rõ ràng, đủ ý chính toàn bộ câu chuyện [có thể mắc 5,6 lỗi nhỏ về diễn đạt hoặc về nội dung]: 7 điểm + Cả nhóm phối hợp với nhau chưa thật nhịp nhàng, kể chưa được  rõ ràng, chưa đủ ý chính toàn bộ câu chuyện [có thể mắc 7-10 lỗi nhỏ về diễn đạt hoặc về nội dung]: 6 điểm . – Mỗi nhóm kể xong từng giám khảo giơ thẻ điểm, giáo viên ghi điểm của từng giám khảo lên bảng để tính điểm số cho mỗi nhóm thi. – Kết thúc cuộc thi, giáo viên cùng ban giám khảo nhận xét, đánh giá và chọn giải nhất, nhì, ba.. tuyên dương những nhóm thi kế chuyện liên hoàn đạt kết quả tốt. Qua việc sử dụng phương pháp và hình thức dạy học trên, tôi thấy các em biết phối hợp nhịp nhàng với các bạn trong nhóm để kể lưu loát câu chuyện một cách rành mạch, đúng ý, đúng nội dung. Tạo niềm say mê học tập cho các em.

2.4. Thi kể chuyện theo lời nhân vật


a. Mục tiêu: Rèn kĩ năng kể chuyện theo lời của một nhân vật trong câu chuyện, trau dồi cách diễn đạt giàu trí tưởng tượng qua việc thay đổi ngôi kế. Luyện trí nhớ và khả năng dùng từ ngữ chính xác, diễn đạt sáng ‎ý và làm nổi bật ý nghĩa của câu chuyện.
          b. Nội dung và cách thức thực hiện * Để thực hiện tốt trò chơi này giáo viên cần chuẩn bị: – Dùng mảnh bìa cứng làm thành vòng mũ, phía trước ghi tên nhân vật. – Lập ban giám khảo để ghi điểm từng học sinh tham dự cuộc thi kể chuyện theo lời nhân vật * Cách tiến hành: Trước hết, giáo viên giúp học sinh nhớ lại tình tiết câu chuyện, xác định câu chuyện có những nhân vật nào? Cốt chuyện như thế nào? Bằng các câu hỏi gợi ý. Ví dụ: Trong truyện kể: Người thầy cũ để các em nắm được từng nhân vật trong truyện tôi đặt một số câu hỏi gợi ý sau: + Câu chuyện này có mấy nhân vật? + Chú bộ đội đến trường làm gì? + Dũng đã suy nghĩ gì khi bố đến thăm thầy giáo cũ? Để phát huy tính độc lập và sáng tạo của học sinh tôi gọi 1 nhóm lên kể mẫu sau đó cho học sinh dưới lớp nhận xét từng vai diễn. Nếu học sinh kể không được giáo viên có thể gợi ‎ý cho các em cách thể hiện từng vai, phân tích từng lời nói, điệu bộ của từng nhân vật trong truyện. Ví dụ kể câu chuyện Quả tim Khỉ: Tôi sẽ hỏi một số câu hỏi gợi ý để học sinh nắm vững tính cách của từng nhân vật. Chẳng hạn: Giọng người dẫn chuyện cần kể với giọng như thế nào? [nhẹ nhàng] Giọng của Cá Sấu khi nói rằng ông vua của nó bị ốm nặng phải ăn một quả tim khỉ, cần kể với giọng như thế nào?[ buồn một cách giả dối] Giọng của Khỉ khi biết âm mưu của Cá Sấu định lừa mình để ăn thịt thì kể với giọng như thế nào? [bình thản, ân cần]. Giọng của Khỉ quát nạt Cá Sấu khi Khỉ đã thoát khỏi sự nguy hiểm của Cá Sấu, cần kể thể hiện như thế nào?[ giận dữ, tức tối]… Sau một nhóm kể mẫu giáo viên gọi từng học sinh xung phong tham gia thi kể chuyện theo lời nhân vật. Học sinh kể theo lời nhân vật nào thì đội mũ ghi tên nhân vật đó đẻ tạo sự ngộ nghĩnh và vui thích cho học sinh khi được hóa trang vào nhân vật. Giáo viên yêu cầu học sinh khi kể cần kể đủ chi tiết, rõ trình tự diễn biến, đúng lời nhân vật đã chọn, giọng điệu và cử chỉ phù hợp với đặc điểm nhân vật. Ban giám khảo theo dõi và chấm điểm, sau đó gọi học sinh bình chọn cho từng nhóm kể hay. Giáo viên công bố điểm và tuyên dương các nhóm kể chuyện theo vai tốt. Với việc sử dụng pháp và hình thức tố chức dạy học trên, tôi thấy các em rất thích được thể hiện mình trước lớp, kể chuyện với phong cách tự nhiên, vui vẻ, hấp dẫn, biết cách thể hiện các tình tiết câu chuyện, biết cách nói lời hội thoại trong truyện. Như vậy với các hình thức kể chuyện phong phú, đa dạng đã thu hút, lôi cuốn học sinh trong giờ kể chuyện làm cho các em như sống lại với các nhân vật trong truyện. với niềm say mê của học sinh cũng như sự dạy dỗ tận tình của giáo viên kết hợp với việc sử dụng phương pháp và  hình thức tổ chức dạy học tốt thì tiết kể chuyện sẽ là môi trường tốt để rèn kĩ năng nói và kĩ năng giao tiếp cho học sinh.

        3. Một số biện pháp áp dụng khác

Để tiết kể chuyện đạt hiệu quả cao, ngoài các biện pháp đã nêu ở trên, tôi đã thường xuyên sử dụng một số biện pháp nữa: Trước hết, giáo viên phải nhớ được nội dung câu chuyện, lời kể mẫu phải rõ ràng, khúc chiết, rành mạch, thông qua cử chỉ thái độ. Trong tiến trình dạy tiết kể chuyện, giáo viên chỉ là người tổ chức hướng dẫn các em kể chuyện để tiết học diễn ra một cách nhẹ nhàng mà sôi nổi. Đối với những câu chuyện thể hiện giọng, điệu bộ khó, tôi thường kể mẫu,  kể xong tôi cho học sinh nhận xét. Nhận xét ở đây không phải là cô kể có hay hay không mà nhận xét về cách kể: đoạn thứ nhất cô kể với giọng như thế nào? Ví dụ: đoạn kể thứ nhất cần kể với giọng vui tươi, nhẹ nhàng. Để kể được giọng vui tươi nhẹ nhàng cần kể  thể hiện giọng điệu, cử chỉ  như thế nào? Đoạn thứ hai kể với giọng như thế nào?[ buồn rầu]. Vậy để kể thể hiện sự buồn rầu thì cần kể như thế nào?[ giọng kể trầm xuống, chậm rãi, nét mặt buồn rầu, mắt nhìn xa xa hoặc nhìn xuống, chớp mi..] Giáo viên hỏi: khi kể có câu hỏi của nhân vật thì cần kể như thế nào? Với cách hướng dẫn như trên, sẽ hình thành được kĩ năng kể chuyện tốt cho học sinh. – Cho các em tìm hiểu trước câu chuyện ở nhà – Giáo viên cần quan tâm đến kĩ năng nói ở một số em còn chậm để tập cho các em tính mạnh dạn, tự tin nói trước lớp, trước tập thể. Khi các em có tiến bộ cần  tuyên dương, khen ngợi để các em phấn khởi và làm động lực cho lần kể sau. – Giáo dục cho các em hiểu thêm về môi trường thông qua nội dung câu chuyện mà các em vừa học từ đó các em sẽ hứng thú và hăng say học tập hơn trong tiết kể chuyện. Nhắc nhở các em luôn chú ý lắng nghe các bài kể chuyện sinh hoạt ngoài giờ lên lớp để học tập. Hoặc nghe kể chuyện trên đài, ti vi…

IV.KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:

Qua việc áp dụng những phương pháp dạy học tích cực đã nêu ở trên,  tôi thấy chất lượng kể chuyện của các em đã được nâng lên một cách rõ rệt. Sang đến học kì 2, học sinh lớp tôi đã không e dè khi kể chuyện nữa, các em rất thích kể chuyện, ai cũng thích thể hiện mình trước lớp để thi kể cho nhau nghe, nhất là những câu chuyện có sắm vai các em thể hiện sắm vai rất tốt. Khi kể, các em đã biết kể không những diễn cảm mà còn biết dùng điệu bộ để minh họa cho câu nói của mình rất phù hợp với nội dung của truyện.

Vào ngày 10/3 vừa qua, Tổng phụ trách đội trường tôi đã phát động phong trào kể chuyện kể về  tấm gương của Bác. Tôi đã cho học sinh cả lớp thi để chọn ra học sinh nào kể hay nhất lớp để đi dự thi kể chuyện cấp trường. Tôi đã chấm và phân loại mức độ kể chuyện của học sinh và đã đạt kết quả qua bảng số liệu sau:

T. gian Kết quả học sinh kể
Giai đoạn I
[Tháng 9]
Nắm n.dung câu chuyện Cách diễn đạt Cách thể hiện
Nắm nội dung Chưa nắm nội dung Thành câu Kể bằng lời mình Kể tự nhiên Kể không tự nhiên K.hợp cử chỉ, điệu bộ
SL % SL % SL % SL % SL % SL % SL %
10 50 10 50 5 25 0 0 5 25 15 75 0 0
Giai đoạn II
[Th. 3]
18 90 2 10 20 100 14 70 15 75 5 25 10 50

Nhìn vào bảng kết quả trên, cho thấy cách tổ chức học sinh kể chuyện theo hướng đã trình bày ở trên giúp học sinh kể chắc chắn, thành thạo, chất lượng kể chuyện của học sinh tăng lên rõ rệt qua từng tuần… Mặt khác, qua quá trình dạy thực nghiệm trên lớp, tôi thấy giờ học diễn ra sôi nổi. Học sinh tiếp thu bài một cách chủ động. Song điều đáng nói hơn cả là hiện tượng nói câu không rõ nghĩa, không trọn ý không còn nữa. Học sinh đã biết dùng các từ ngữ giàu hình ảnh, câu nói khá sinh động, khi nói về sự vật xung quanh mình. Qua các buổi sinh hoạt ngoài giờ lên lớp, các em đã mạnh dạn kể nhiều câu chuyện hay, hấp dẫn cho khối và toàn trường cùng nghe. Đặc biệt qua hội thi kể chuyện cấp trường vừa qua lớp có 2 em tham gia thì cả 2 em đều đạt, trong đó có 1 em đạt giải cao [ giải nhì ]. Còn riêng bản thân tôi, nhờ vào sự nỗ lực của bản thân, cũng như tinh thần tự học tự rèn cao và không ngừng học hỏi đồng nghiệp, bạn bè cũng như sự tìm tòi sách báo để đúc rút kinh nghiệm. Qua cuộc thi kể chuyện Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh do trường tổ chức, tôi cũng đã đạt giải ba. Nhờ vào sự tận tình và sự đổi mới  phương pháp cũng như sự tổ chức hình thức dạy học phù hợp theo tâm sinh lý lứa tuổi học sinh tiểu học của giáo viên mà chất lượng học sinh ngày càng tiến bộ, giúp các em kể chuyện tốt, mạnh dạn và tự tin trước đám đông. Từ đó củng cố những kiến thức đã học, học sinh còn được mở rộng và tích cực hóa vốn từ ngữ, phát triển tư duy, nâng cao hiểu biết về đời sống, góp phần hình thành nhân cách con người mới từ đó các em rút ra được những bài học sâu sắc. Điều đó chứng tỏ cách dạy kể chuyện theo hướng đã trình bày ở trên đã đem lại kết quả rất khả quan, cần được phát triển để thực sự nâng cao chất lượng phân môn kể chuyện nói riêng và học môn Tiếng Việt nói chung cho học sinh lớp 2. Tôi tự nhận thấy mình đã tìm được hướng đi đúng, cách làm phù hợp cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy phân môn Kể chuyện. Tôi thấy mỗi giờ dạy bản thân mình rất say mê, hứng thú trong việc rèn cho các em học Kể chuyện. Cho nên tiết Kể chuyện bây giờ trở nên nhẹ nhàng hơn, hiệu quả hơn so với trước.

Đầu năm học, khi mới bước vào học phân môn kể chuyện, có không ít học sinh lớp tôi rất sợ học phân môn này. Nhưng dần dần với sự động viên, dìu dắt của tôi, số lượng các em sợ học môn này ngày càng giảm dần. Thay vào đó, học sinh rất mong muốn, phấn khởi chờ đón giờ Kể chuyện. Học sinh lớp tôi đã ý thức hơn trong các giờ học kể chuyện, học sinh tự tin và hứng thú học tập. Chất lượng học có chuyển biến rõ rệt. Đó chính là những động lực thúc đẩy tôi ngày càng nỗ lực phấn đấu hơn nữa trong sự nghiệp trồng người đầy khó khăn thử thách này.

Phần C: KẾT LUẬN
I. Bài học kinh nghiệm Qua quá trình nghiên cứu một số biện pháp dạy học phân môn kể chuyện ở học sinh lớp 2A , tôi đã rút ra được những kinh nghiệm sau: – Trước hết người giáo viên phải có tâm với nghề, luôn tìm tòi, học hỏi, trao đổi kiến thức, cập nhật những vấn đề mới của xã hội để có phương pháp dạy phù hợp. – Nắm chắc nội dung chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt 2 nói chung và phân môn Kể chuyện nói riêng. Nắm vững từng đối tượng học sinh để có những sáng tạo, cải tiến về mặt phương pháp sao cho phù hợp với từng đối tượng và từng bài cụ thể. Cần xác định rõ mục tiêu yêu cầu bài dạy, các bước dạy Kể chuyện cho học sinh. Thường xuyên dự giờ, quan sát tìm hiểu thực tế để rút ra ưu khuyết điểm của phương pháp giảng dạy mình đang thực hiện từ đó có hướng khắc phục. – Hình thành cho các em kĩ năng học tập, làm việc một cách khoa học. – Quan sát thực tế, sử dụng đồ dùng dạy học, câu hỏi gợi ý, dẫn dắt học sinh hình thành kĩ năng và kiến thức mới. – Đặt các tình huống có vấn đề giúp học sinh luôn suy nghĩ, tìm tòi để phát triển tư duy, học cách ghi nhớ để nhớ lâu kiến thức. – Sử dụng nhiều hình thức: thi đua, khen thưởng để khuyến khích các em nỗ lực học tập. – Phải có phương tiện tối thiểu để phục vụ bài giảng : tranh minh họa, bảng phụ. Song cần lưu ý rằng: hãy sử dụng triệt để đồ dùng sẵn có. – Không ngừng công tác tự học, tự rèn để nâng cao trình độ về chuyên môn nghiệp vụ. Luôn bám sát yêu cầu sách giáo khoa và chuẩn kiến thức để giảng dạy phù hợp, chuẩn bị chu đáo, kĩ lưỡng trước khi lên lớp, thường xuyên luyện tập các kĩ năng kĩ xảo trong lời kể và cử chỉ, điệu bộ.

II. Kết luận

Đứng trước vai trò, vị trí, tầm quan trọng của việc dạy kĩ năng nói cho HS Tiểu học nói chung và đối với học sinh lớp hai nói riêng, tôi thấy việc hướng dẫn cho các em nắm được phương pháp học phân môn Kể chuyện là hết sức cần thiết . Học Kể chuyện không chỉ là học những tri thức về ngôn ngữ mà quan trọng hơn là bồi dưỡng và phát triển năng lực kể chuyện của mỗi người. Năng lực này bao gồm năng lực tư duy và năng lực cảm xúc, năng lực thể hiện, tức là khả năng nói, diễn đạt cảm nghĩ của mình trong một văn bản hay trong một lời nói. Một trong những mục đích quan trọng của việc dạy Tiếng Việt cho HS trong nhà trường là giúp cho các em hiểu và sử dụng được Tiếng Việt, một phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của chúng ta. Hơn nữa, việc dạy học Tiếng Việt không phải chỉ đơn thuần nhằm cung cấp cho học sinh một số những khái niệm hay quy tắc ngôn ngữ mà mục đích cuối cùng cần đạt đến lại là việc giúp các em có được những kĩ năng, kĩ xảo trong việc sử dụng ngôn ngữ. Học sinh không chỉ biết những lý thuyết về hệ thống ngữ pháp Tiếng Việt, biết một khối lượng lớn các từ ngữ tiếng việt, mà lại không có khả năng sử dụng hiểu biết ấy vào trong giao tiếp Để làm được điều này giáo viên phải linh hoạt trong mọi tiết dạy mà lựa chọn các phương pháp và hình thức tổ chức lớp học sao cho đảm bảo tính vừa sức của học sinh tạo tiết học hứng thú và bổ ích. – Khi áp dụng các biện pháp trên vào dạy ở từng bài Kể chuyện, tôi nhận thấy các em không sợ học phân môn kể chuyện nữa vì bản thân các em đã được đóng vai trò chủ đạo trong tiết học.Tôi nghĩ rằng, với biện pháp trên, không chỉ áp dụng ở lớp 2 mà các khối khác đều áp dụng được. Nếu người giáo viên biết vận dụng các biện pháp trên để tiến hành dạy trong giờ học, tôi nghĩ chất lượng giáo dục, hiệu quả quả giáo dục của môn Tiếng Việt cụ thể là phân môn Kể chuyện ngày càng tăng cao một cách rõ rệt.  Các biện pháp trên,  tôi đã thực hiện trong giảng dạy, tôi thấy học sinh tiến bộ hẳn trong năm học. Chắc chắn rằng giải pháp đưa ra còn nhiều hạn chế, thiếu sót do đúc kết từ kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm. Trên đây là kinh nghiệm của tôi nhằm nâng cao chất lượng dạy học trong phân môn Kể chuyện nói riêng và chất lượng học Tiếng Việt ở tiểu học nói chung. Song tôi rất mong muốn các bạn đồng nghiệp tìm tòi, sáng tạo đúc kết ra những sáng kiến kinh nghiệm quý báu để góp phần nâng cao chất lượng giờ dạy.

III.Đề xuất và kiến nghị


a. Đề nghị Bộ Giáo dục, Sở Giáo dục: trang bị thêm tranh ảnh, mẫu vật băng hình có nội dung theo các bài học để giờ dạy đạt kết quả cao hơn.
b. Đề xuất với ban giám hiệu – Hằng năm cần tổ chức các phong trào thi đua kể chuyện, để các em có điều kiện phát huy tài năng của mình. Vào các thứ hai đầu tuần, đội nên tổ chức cho học sinh kể những câu chuyện hay về gương người tốt, việc tốt để thu hút nhiều em được tham gia kể chuyện. – Nhà trường nên trang bị thêm tranh kể chuyện cho tất cả các khối lớp, mua thêm một số đồ dùng cần thiết để phục vụ cho việc dạy học kể chuyện như : bút chỉ tranh kể chuyện, mi cà rô cá nhân , …. – Trong các kì thi giáo viên dạy giỏi nên khuyến khích giáo viên dạy Kể chuyện để trao đổi tìm ra phương pháp hay. – Nâng cao hiệu quả các giờ chuyên môn, khuyến khích giáo viên trao đổi kế hoạch  bài học, cùng thống nhất soạn giáo án tập thể để phát huy sở trường của từng cá nhân và sức mạnh của tập thể

c. Đối với giáo viên

Giáo viên phải hết sức nhiệt tình, tận tụy với công việc. Phải quan tâm sâu sắc đến mọi đối tượng học sinh. Phải thường xuyên đổi mới phương pháp và hình thức dạy học sao cho phù hợp với mọi đối tượng học sinh. Coi trọng môn kể chuyện như các môn học khác, vì vậy giáo viên phải thường xuyên nghiên cứu đổi mới phương pháp và hình thức dạy học môn kể chuyện có hiệu quả.

          d. Đối với gia đình

Tôi muốn đề xuất với gia đình học sinh, mỗi phụ huynh phải là tấm gương sáng cho con mình học tập. Phụ huynh cần quan tâm đến con cái nhiều hơn nữa, nhắc nhở con chăm chỉ học bài. Mua sắm đầy đủ thiết bị, đồ dùng và sách tranh truyện cho các em. Đặc biệt phải thường xuyên liên lạc với nhà trường để cùng nhau giáo dục con em mình ngày một hoàn thiện hơn về đạo đức, học tập đạt kết quả tốt hơn. Rất mong Ban giám hiệu và các bạn đồng nghiệp góp ý để tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Xin trân trọng cảm ơn!

                                                                                                                       EaM’nang , ngày 10 tháng 3 năm 2014

Người viết

                                                                                                                                          Nguyễn Thị Xuân

Video liên quan