Phân khúc thị trường xe ô to

GVHD: Thầy Trần Bá Thọ

Mục lục
PHẦN 1: THỊ TRƯỜNG XE ÔTÔ Ở VIỆT NAM

1

Phần 1: Thị trường xe ôtô ở Việt Nam

PHẦN 1: THỊ TRƯỜNG XE Ô TÔ Ở VIỆT
NAM
1 KHẢ NĂNG SẢN XUẤT VÀ NHẬP KHẨU
1.1 Thực trạng sản xuất của ngành
Sau gần 20 năm xây dựng, bước đầu Việt Nam đã có một ngành công nghiệp “lắp ráp” ôtô, hình thành được một ngành công nghiệp hỗ trợ, cung cấp một số phụ tùng cho sản xuất, lắp
ráp ô-tô trong nước. Ngành công nghiệp ô-tô Việt Nam cũng đã quy tụ được một số tập đoàn ô-tô
lớn trên thế giới như Ford, Mercedes, Toyota… và cũng đã “hình thành” lên 18 doanh nghiệp
FDI và 38 DN trong nước tham gia sản xuất với năng lực khoảng 460 nghìn xe/năm, bao gồm
đầy đủ các chủng loại xe con, xe tải, xe khách… Và ở mức độ nào đó cũng đáp ứng đủ và kịp
thời nhu cầu ô-tô trong nước theo mục tiêu đề ra mới chỉ về mặt số lượng. Ngành công nghiệp ôtô cũng đã đóng góp nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước, bình quân khoảng hơn 1 tỷ
USD/năm - chỉ tính riêng các khoản thuế và cũng đã giải quyết công ăn việc làm cho khoảng 80
nghìn lao động.
Bên cạnh đó, cũng cần ghi nhận thời gian qua, ngành công nghiệp này cũng tích lũy được
nhiều kinh nghiệm trong việc lắp ráp ô-tô và sản xuất một số phụ tùng, linh kiện… Đây có lẽ sẽ
là tiền đề quan trọng cho việc xây dựng và phát triển ngành sản xuất - chế tạo ô-tô theo định
hướng và quy hoạch trong tương lai.
Thực tế ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô-tô đã hình thành, nhưng còn
yếu kém. Mục tiêu Quy hoạch đặt ra tỷ lệ sản xuất trong nước đối với động cơ và hộp số là 5090% vào năm 2010, tuy nhiên đến nay vẫn chưa sản xuất được, mặc dù số lượng DN tham gia
ngành công nghiệp phụ trợ này đến nay khoảng 210 DN. Nhưng những DN này chủ yếu thuộc
loại vừa và nhỏ và chỉ sản xuất được một số ít chủng loại phụ tùng đơn giản, có hàm lượng công
nghệ thấp như gương, kính, ghế ngồi, bộ dây điện, ắc quy, sản phẩm nhựa…, một số DN đầu tư

dây chuyền dập thân, vỏ xe.
Ngay cả việc xuất khẩu phụ tùng sang các nước trong khu vực, các DN đầu tư tại Việt Nam
cũng ít có lợi thế cạnh tranh vì trong nước chưa sản xuất được phần lớn các loại nguyên, vật liệu
chủ yếu. Ngoài ra, là quốc gia đi sau trong khu vực sau các nước như Thái-lan, Indonesia,
Malaisia, nên các Tập đoàn ô-tô lớn khi đầu tư dự án tại Việt Nam đều đã có mạng lưới cung ứng
phụ tùng, linh kiện trong hệ thống, vì vậy, các DN Việt Nam khó tham gia vào chuỗi cung ứng
phụ tùng, linh kiện toàn cầu của họ. Theo các nhà quản lý, hiện hạ tầng giao thông của Việt Nam
còn yếu kém, chưa tạo điều kiện kích cầu cho ngành công nghiệp ô-tô.Trong khi đó, cơ chế

2

GVHD: Thầy Trần Bá Thọ

chính sách thuế, phí không ổn định, dàn trải, chưa thực sự tạo thành công cụ hữu hiệu để kích
thích sự phát triển của ngành này.
Như vậy chính sách thuế, phí cao đối với ngành công nghiệp ô-tô trong thời gian qua đã
đẩy giá bán xe lên cao làm hạn chế sức mua và bảo hộ cho cho các DN sản xuất. Về vấn đề này,
theo các chuyên gia, nếu coi đó là nguyên nhân dẫn đến hạn chế sức mua, bảo hộ lớn cho các DN
sản xuất trong nước thì cần phải phân tích kỹ càng mới có thể có câu trả lời xác thực.
Việc áp thuế hướng đến khuyến khích DN tăng tỷ lệ nội địa hóa, đồng thời phát triển công
nghiệp ô-tô, hướng đến xuất khẩu… Do đó, các DN cần cố gắng tiết kiệm chi phí sản xuất kinh
doanh, hạch toán đúng giá thị trường…
Tuy nhiên, một số thực trạng lại cho thấy các liên doanh đều thờ ơ với chiến lược sản xuất
và lắp ráp trong nước. Thực tế này đặt ra câu hỏi: phải chăng các hãng ô tô ở Việt Nam đang
chuyển dần sang hình thức kinh doanh nhập khẩu trực tiếp từ các nhà máy tại các nước Đông
Nam Á như Thái Lan, Malaysia,.. nơi sản phẩm của họ nếu chứng minh được là có xuất xứ 40%
nội địa hóa sẽ được hưởng thuế nhập khẩu riêng của khu vực ASEAN, trong đó có Việt Nam, là
0% bắt đầu từ năm 2018 [từ năm 2011 giảm còn 70% và cứ sau 1 năm giảm tiếp 10% cho đến
năm 2015 còn 15%]. Điều này có thể khiến lượng xe nhập khẩu tăng mạnh trong tương lai, với

nguồn cung chủ yếu từ các nước Đông Nam Á điển hình là Thái Lan-đất nước có hàng chục nhà
máy của các hãng ô tô lớn.
Còn lại trong tổng số lượng cung ra thị trường là xe nhập lậu, lượng xe này có ảnh hưởng
không nhỏ tới thị trường ô tô ở nước ta do giá của các loại xe này cực rẻ, do vậy mà nó có sức
cạnh tranh lớn.

2 . QUY MÔ TIÊU THỤ HẰNG NĂM
Quy mô thị trường ô tô Việt Nam hiện nay vẫn rất nhỏ, mỗi năm tiêu thụ trên 200.000 xe ô
tô các loại. Trong giai đoạn 2009-2013, giá trị nhập khẩu ô tô và phụ tùng linh kiện ô tô vào Việt
Nam đạt 2,8 tỉ USD/năm, chiếm 1,85% kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Công nghiệp hỗ trợ cho công nghiệp ô tô vẫn còn kém phát triển. Tỉ lệ mua phụ tùng trong
nước đạt được ở mức khác nhau tùy theo chủng loại xe và nhà sản xuất [10-30% đối với xe du
lịch, >30% đối với xe tải, > 40% đối với xe buýt]. Phụ tùng, linh kiện chủ yếu được sản xuất tại
nhà máy, tỉ lệ mua từ nhà cung cấp rất thấp. Bên cạnh đó, trong số các nhà cung cấp hiện có, hơn
90% là nhà cung cấp FDI, chỉ có một vài nhà cung cấp trong nước có thể tham gia được vào
mạng lưới nhà cung cấp của các nhà sản xuất, lắp ráp ô tô tại Việt Nam.
Theo số liệu bán hàng mới nhất từ VAMA [Hiệp hội các nhà sản xuất ôtô Việt Nam], trong
tháng 11/2015, lượng bán hàng của toàn thị trường đạt 29,706 xe, tăng 33% so với tháng 10/2015
và tăng 86% so với tháng 11/2014.
3

Phần 1: Thị trường xe ôtô ở Việt Nam

Lượng tiêu thụ dòng xe nhập khẩu tiếp tục tăng mạnh, riêng tháng 11/2015, xe nhập tiêu
thụ đạt 12.500 chiếc, tăng 95% so với tháng 10 [6.400 chiếc]. Trong khi đó, tiêu thụ xe ô tô sản
xuất, lắp ráp trong nước chỉ đạt 17.000 chiếc giảm 7,6%
Theo VAMA tính chung 11 tháng đầu năm, lượng tiêu thụ ô tô cả nước đạt hơn 215.000
chiếc, tăng 57% so với cùng kỳ năm trước. Tăng trưởng xe nhập khẩu đạt gần 80% tăng 61.000
xe so với 34.000 chiếc [cùng kỳ năm trước]. Còn xe lắp ráp tăng 50% so với cùng kỳ năm trước.

Xét theo chủng loại xe, xe du lịch [9 chỗ ngồi trở xuống] được tiêu thụ nhiều nhất với
18.611 chiếc, tăng 42% so với tháng 10, lớn hơn nhiều so với tăng trưởng tiêu thụ các dòng xe
thương mại [tăng 18,4%] và xe tải – xe chuyên dụng [tăng 31,2%]. 11 tháng đầu năm số xe du
lịch được tiêu thụ cũng chiếm hơn 40% thị trường, đạt hơn 103.000 chiếc. Theo các chuyên gia,
nguyên nhân của sự thay đổi lớn ở lượng tiêu thụ xe nhập khẩu, đến từ những chính sách thuế
phí mới ban hành và sức phát triển chung của thị trường ô tô.
Tính riêng các dòng xe trong tháng 11/ 2015, Thaco tiếp tục dẫn đầu với 8.625 xe, chiếm
tới 41,2%; tăng 18% so với tháng 10/2015; tăng 96% so với tháng 11/2014. Luỹ kế 11 tháng
2015, doanh số bán hàng của Thaco lên đến 71.085 xe, chiếm 38,2% toàn thị trường. Đứng kể
tiếp sau là hãng xe Toyota với 4.419 xe, chiếm 21,1%, 11 tháng năm 2015, doanh số bán hàng
của hãng xe Toyota là 44.935 xe, chiếm 24,3%.
Lượng xe bán được của Ford tháng 11/2015 vừa qua là 2.369 xe; chiếm 11,3%; tăng 11%
so với tháng 10/2015 và tăng 53% so với tháng 11/2014. 11 tháng năm 2015, doanh số bán hàng
của Ford là 18.106 xe chiếm 9,8%.
Theo các chuyên gia kinh tế về thị trường xe hơi tại Việt Nam cho hay, dù quy mô thị
trường còn nhỏ, giá xe đắt đỏ nhưng tốc độ tiêu thụ ô tô tại Việt Nam tăng rất mạnh và dự kiến sẽ
tiếp tục tăng trong tháng cuối cùng của năm 2015.

3 PHÂN KHÚC THỊ TRƯỜNG Ô TÔ VIỆT NAM
3.1 Khái niệm
Phân khúc thị trường ô tô là tập hợp những khách hàng có cùng mục tiêu hoặc mong muốn
sở hữu một nhóm ô tô nào đó có những đặc điểm chung về kiểu dáng, kích thước, ngoại hình
hoặc option.
Dựa vào yếu tố này, các nhà quản lý kinh doanh xe ô tô phân loại thị trường ô tô thành các
phân khúc sau
X: Chiều dài | DxR: Chiều rộng | DxL: Dung tích động cơ

4

GVHD: Thầy Trần Bá Thọ

3.1.1

Phân khúc A

Đặc điểm của các xe thuộc phân khúc A:
DxR nhỏ hơn 3.600 X 1.600; khoảng sáng gầm
xe

Chủ Đề