Mô hình thể hiện cách tiếp cận của kinh tế tuần hoàn

Về nhận thức

Kinh tế tuần hoàn [KTTH] là khái niệm được sử dụng lần đầu vào năm 1990, bởi đồng tác giả [Pearce, Turner] cuốn sách có tên “Kinh tế Tài nguyên và Môi trường”. Đến nay, tuy vẫn có những tài liệu đưa ra các khái niệm khác nhau do cách tiếp cận từ các góc độ nghiên cứu và ứng dụng có tính đặc thù riêng.

Tuy nhiên, từ góc độ nền kinh tế, khái niệm KTTH có thể được hiểu là “Mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất và dịch vụ đặt ra mục tiêu kéo dài tuổi thọ của vật chất và loại bỏ tác động tiêu cực đến môi trường”. Sự tuần hoàn thể hiện trong tái sử dụng, thông qua chia sẻ, sửa chữa, tân trang, tái chế, tái sản xuất…tạo lập các vòng lặp khép kín, nhằm giảm tối thiểu nguyên liệu đầu vào, lượng phế thải, khí thải và độ ô nhiễm.

Kinh tế tuần hoàn là mô hình kinh tế lần đầu tiên được nêu trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng [Ảnh minh họa: KT]

Nền KTTH thực chất là kéo dài thời gian sử dụng các sản phẩm, trang thiết bị và cơ sở hạ tầng nhằm tăng năng suất của các tài nguyên. Các “phế thải” của quy trình sản xuất-tiêu dùng này, được xem như nguyên vật liệu của các quy trình sản xuất-tiêu dùng khác, bất kể đó là sản phẩm chính, phụ hay tài nguyên được thu hồi.

Theo giới nghiên cứu, trong mỗi nền kinh tế, vốn, lao động, khoa học, công nghệ, tài nguyên được xác định là những yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình tái sản xuất [theo nghĩa rộng: sản xuất-phân phối-trao đổi-tiêu dùng] đều tạo ra chất thải vào môi trường. Để nâng cao hiệu quả và tính bền vững của nền kinh tế cần phải giảm đến mức thấp nhất chất thải ra môi trường.

Vì thế, KTTH được mô tả là hệ thống kinh tế dựa vào các mô hình kinh doanh không có sự “kết thúc vòng đời” bằng việc giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và thu hồi các nguyên liệu trong các quá trình tái sản xuất ở các cấp độ từ vi mô đến vĩ mô, đáp ứng sự thịnh vượng về kinh tế, công bằng xã hội, bảo đảm lợi ích của hiện tại và tương lai.

Về thời cơ và thách thức

Việt Nam là một quốc gia đang hội nhập ngày càng sâu, rộng hơn vào nền kinh tế toàn cầu, các hiệp định FTA phần lớn là thế hệ mới, đều có các điều khoản quy định về phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và bắt buộc các bên phải tuân thủ các tiêu chuẩn phát chất thải, khí thải.

Tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới [WEF] hồi đầu năm 2020, WEF đã ra lời kêu gọi “Thế giới đang cần một nền KTTH. Hãy giúp chúng tôi biến điều đó thành hiện thực”. Đây chính là tiền đề thúc đẩy Việt Nam gia tăng tốc độ chuyển đổi sang  KTTH với những thời cơ và thuận lợi cơ bản sau đây:

[1] KTTH là xu hướng chung, tất yếu có tính toàn cầu đã được chứng minh thành công ở nhiều quốc gia trên thế giới như: Thụy Điển, Đan Mạch, Phần Lan, Canada, Nhật Bản, Trung Quốc, Singapore... Vì thế, trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định: “Phát triển bền vững là xu thế bao trùm trên thế giới; kinh tế số, KTTH, tăng trưởng xanh đang là mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn”

[2] Việc chuyển đổi mô hình “kinh tế truyền thống” sang “KTTH” sẽ góp phần phát triển nhanh và bền vững như định hướng mà Văn kiện Đại hội XIII nêu ra là, “Phát triển kinh tế xanh, ít chất thải, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, các bon thấp; khuyến khích phát triền mô hình KTTH để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình tái sản xuất”

[3] Đảng ta còn chỉ rõ: “Đẩy nhanh chuyển đổi số đối với một số ngành, lĩnh vực đã có điều kiện, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ứng dụng và phát triển công nghệ mới, ưu tiên công nghệ số, kết nối 5G và sau 5G, AI, blockchain, in 3D, IoT, an ninh mạng, năng lượng sạch, công nghệ môi trường để chuyển đổi, nâng cao năng suất, hiệu quả của nền kinh tế”. Vì thế, KTTH là cơ hội lớn để tăng trưởng nhanh và bền vững.

[4] Trước áp lực của sự thiếu hụt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, lượng chất thải lớn, nhất là chất thải nhựa… thì chỉ có giải pháp hiệu quả là sớm triển khai phát triển KTTH. Bởi chúng ta đang cam kết thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững [SDGs] và ứng phó với biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, là một nước có nền kinh tế lạc hậu, việc chuyển đổi sang nền KTTH cũng đang đặt ra những thách thức không nhỏ:

- Về nhận thức: KTTH được thực hiện từ thiết kế đến triển khai, trong các ngành, lĩnh vực, đối với từng doanh nghiệp, người dân và các cấp quản lý, lãnh đạo… để tạo ra sự đồng thuận chung là thách thức lớn nhất cần phải vượt qua.

- Về nguồn lực: KTTH đòi hỏi phải gắn với đổi mới khoa học, tiếp cận công nghệ  tiên tiến. Đồng thời phải có đội ngũ chuyên gia giỏi, để giải quyết tốt các vấn đề từ khâu đầu đến khâu cuối của cả quá trình tái sản xuất. Hiện nay những chuyên gia này ở nước ta chưa được đào tạo và cũng chưa có chuyên ngành đào tạo.

- Về khung pháp lý: Việt Nam hiện còn thiếu các cơ chế chính sách, luật pháp  và bộ tiêu chí để nhận diện, đánh giá, tổng kết và đưa ra phân loại chính xác mức độ phát triển của KTTH, đây cũng là thách thức lớn cần phải vượt qua.

- Về doanh nghiệp đầu tàu: Việt Nam còn thiếu các doanh nghiệp đủ năng lực công nghệ về tái chế, tái sử dụng các sản phẩm đã qua sử dụng; khó thay đổi thói quen sản xuất và tiêu dùng của toàn xã hội.

- Về lợi ích và động lực kinh tế: KTTH là đỉnh cao của cách tiếp cận hướng đến phát thải bằng 0, đòi hỏi sự phối hợp chia sẻ thực sự gắn với lợi ích kinh tế, do vậy việc sử dụng động lực kinh tế, cơ chế thị trường để gắn kết các bên liên quan nhằm thực hiện KTTH cũng là thách thức lớn cần vượt qua.

Kiến nghị  

Một là, Nhà nước cần sớm xây dựng hành lang pháp lý cho sự hình thành, phát triển KTTH. Theo đó, cần sớm sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường; quy định trách nhiệm cụ thể của nhà sản xuất, phân phối trong việc thu hồi, phân loại và tái chế hoặc chi trả chi phí xử lý các sản phẩm thải bỏ dựa trên số lượng sản phẩm bán ra; thiết lập lộ trình xây dựng và áp dụng quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường tương đương với nhóm các nước tiên tiến trong khu vực.

Hai là, cần sớm triển khai nghiên cứu sâu rộng về phát triển KTTH từ cách tiếp cận toàn cầu, nguyên tắc xác lập theo ngành, vùng, lĩnh vực; triển khai mô hình, tiêu chí cụ thể cho nền KTTH, qua đó lựa chọn vận dụng cụ thể vào hoàn cảnh thực tiễn địa phương và phổ biến đến doanh nghiệp, người dân, nhà quản lý để có sự nhìn nhận đúng đắn.

Ba là, phát triển KTTH cần phải dựa trên các ngành, lĩnh vực và địa phương đã và đang triển khai các mô hình kinh tế gần với cách tiếp cận KTTH, từ đó bổ sung hoàn thiện và có sự lựa chọn phù hợp cho từng ngành, lĩnh vực từ thí điểm đến triển khai nhân rộng.

Bốn là, cần tăng cường trao đổi, học hỏi kinh nghiệm quốc tế, nhất là các quốc gia đã và đang thực hiện thành công KTTH, từ đó chuyển giao và áp dụng vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, nhất là các nước đã ký kết hiệp định FTA thế hệ mới.

Năm là, cần có lộ trình và ưu tiên trong phát triển KTTH dựa trên nhu cầu thị trường và đòi hỏi của xã hội. Đối với nước ta, ưu tiên trước hết là chất thải nhựa và túi nilon phải thực hiện và đưa vào kế hoạch 5 năm tới để giải quyết triệt để, giảm thiểu tối đa phát thải ra môi trường.

Sáu là, cần sớm triển khai phân loại rác tại nguồn và rác sau khi phân loại phải được thu gom, làm sạch, vận chuyển đưa vào tái sử dụng, tái chế. Động thái trên phải trở thành yêu cầu bắt buộc, tiêu chí đánh giá văn hóa đối với người dân.

Như vậy, KTTH là một hệ thống trong đó các tài nguyên được tận dụng lại hoặc tái sử dụng, phế liệu trở thành yếu tố đầu vào tiếp tục quá trình tái sản xuất, cùng với tiến bộ công nghệ và nhu cầu ngày càng tăng trong bối cảnh các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày cành hữu hạn.

Vì thế, việc nhận thức quán triệt sâu sắc những định hướng phát triển KTTH trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là phù hợp với nhu cầu phát triển tất yếu khách quan có tính quy luật. Đồng thời còn có ý nghĩa rất quan trọng để đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng sớm đi vào cuộc sống thực tiễn./.

1. KINH TẾ TUẦN HOÀN LÀ GÌ?

Theo Wikipedia tiếng Việt Kinh tế tuần hoàn [tiếng Anh: circular economy] là một mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất và dịch vụ đặt ra mục tiêu kéo dài tuổi thọ của vật chất, và loại bỏ tác động tiêu cực đến môi trường. Các hệ thống tuần hoàn áp dụng các quy trình tái sử dụng [Reuse] thông qua chia sẻ [Sharing], sửa chữa [Repair], tân trang [Refurbishment], tái sản xuất [Remanufacturing] và tái chế [Recycling] nhằm tạo ra các vòng lặp kín [close-loops] cho tài nguyên sử dụng trong hệ thống kinh tế nhằm giảm đến mức tối thiểu số lượng tài nguyên sử dụng đầu vào và số lượng phế thải tạo ra, cũng như mức độ ô nhiễm môi trường và khí thải. Mục đích của kinh tế tuần hoàn là nhằm kéo dài thời gian sử dụng các sản phẩm, trang bị và cơ sở hạ tầng nhằm tăng năng suất của các tài nguyên này. Tất cả các "phế thải" của một quy trình sản xuất tiêu dùng đều nên được xem như nguyên vật liệu của các quy trình sản xuất tiêu dùng khác, bất kể đó là sản phẩm phụ hay tài nguyên được thu hồi từ một quy trình công nghiệp khác hay tài nguyên được tái sinh cho môi trường tự nhiên [ví dụ như thông qua quá trình ủ phân chất thải hữu cơ]. Cách tiếp cận này là tương phản với mô hình kinh tế tuyến tính [tiếng Anh: linear economy] đang được phổ biến rộng rãi. Trong mô hình kinh tế tuyến tính, các tài nguyên chỉ di chuyển theo một chiều, từ khai thác tài nguyên, sản xuất, đến vất bỏ sau tiêu thụ, dẫn đến việc lãng phí tài nguyên và tạo ra một lượng phế thải khổng lồ.

Khái niệm Kinh tế tuần hoàn [KTTH] được sử dụng chính thức đầu tiên bởi Pearce và Turner [1990][1]  Nó được dùng để chỉ mô hình kinh tế mới dựa trên nguyên lý cơ bản “mọi thứ đều là đầu vào đối với thứ khác”, hoàn toàn không giống với cách nhìn của nền kinh tế tuyến tính truyền thống. Ellen MacArthur Foundation mô tả nền KTTH là một hệ thống công nghiệp phục hồi hoặc tái tạo theo ý định và thiết kế. Nó chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo, loại bỏ việc sử dụng các hóa chất độc hại và chất thải gây suy giảm khả năng tái sử dụng thông qua thiết kế ưu việt của vật liệu, sản phẩm, hệ thống và trong phạm vi này, là các mô hình kinh doanh. Hay nói một cách đơn giản Kinh tế tuần hoàn là biến rác thải đầu ra của ngành này thành nguồn tài nguyên đầu vào của ngành khác hay tuần hoàn trong nội tại bản thân của một doanh nghiệp. Kinh tế tuần hoàn một phần góp phần gia tăng giá trị cho doanh nghiệp, giảm khai thác tài nguyên, giảm chi phí xử lý chất thải, giảm thiểu ô nhiễm môi trường.

2. VÌ SAO PHẢI CHUYỂN ĐỔI TỪ KINH TẾ TUYẾN TÍNH SANG KINH TẾ TUẦN HOÀN?

Trong bối cảnh hiện nay, việc chuyển đổi từ kinh tế thẳng sang kinh tế tuần hoàn là thiết yếu đối với tất cả các quốc gia trên thế giới, không ngoại trừ Việt Nam. Bốn lý do chính mà bắt buộc diễn ra sự chuyển đổi này bao gồm:

[1] Sự gia tăng nhu cầu về nguyên liệu thô, trong khi nguồn nguyên liệu này ngày càng cạn kiệt, đặc biệt đối với nguồn tài nguyên khoáng sản, nguồn tài nguyên không thể tái tạo được;

[2] Sự phụ thuộc vào các nước khác, đặc biệt các quốc gia phụ thuộc nước khác về nguyên liệu thô. Sự phụ thuộc này dẫn đến căng thẳng về chính trị toàn cầu;

[3] Tác động đến sự biến đổi khí hậu [phát thải các khí nhà kính, đặc biệt là CO2] làm gia tăng quá trình biến đổi khí hậu cực đoan, gây nên các hậu quả cực kỳ nghiêm trọng. Sự chuyển đổi sang nền kinh tế tuần hoàn với mục tiêu sử dụng năng lượng bền vững sẽ làm giảm quá trình biến đổi khí hậu;

[4] Tạo ra các cơ hội kinh tế, đặc biệt đối với doanh nghiệp và khoa học trong lĩnh vực việc đổi mới, thiết kế, tái chế và sáng tạo.

Việc giải quyết các vấn đề liên quan đến khan hiếm nguyên liệu, sử dụng năng lượng bền vững, hạn chế rác thải tối đa trong từng công đoạn của vòng đời sản phẩm, tái sử dụng nguyên vật liệu có sẵn, … đòi hỏi sự đầu tư đáng kể về nguồn nhân lực khoa học có trình độ, tăng tính cạnh tranh cho nền kinh tế. Gần đây, Bộ Tài nguyên và Môi trường, cho biết sự chuyển dịch từ kinh tế tuyến tính sang kinh tế tuần hoàn đang trở thành xu hướng trên toàn cầu.

3. KINH TẾ TUẦN HOÀN Ở VIỆT NAM

Khái niệm liên quan đến mô hình KTTH đã có ở Việt Nam từ cách đây 20 năm với những định danh khác. Đó là mô hình VAT [Vườn – Ao – Chuồng], một mô hình chúng ta áp dụng khá thành công. Ngoài ra, các khái niệm “khu công nghiệp sinh thái – ecological industrial zone”, “sản xuất sạch hơn – Cleaner production”, “Không phát thải – zero emission”, tái chế, tái sử dụng, tái sản xuất – một phần của KTTH – cũng được đề cập nhiều trong thời gian qua. Các khái niệm này đã được thể hiện qua các chính sách của Đảng và nhà nước liên quan đến công tác bảo vệ môi trường và được các Trường/Viện nghiên cứu triển khai nghiên cứu, áp dụng như Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường [Bộ Tài nguyên và Môi trường], Viện Môi trường và Tài nguyên [Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh].

Những cơ hội cho sự phát triển KTTH ở Việt Nam, thể hiện ở một số điểm sau đây: Thứ nhất, KTTH là xu hướng chung của toàn cầu, vì vậy Việt Nam sẽ học hỏi được nhiều kinh nghiệm của các nước đi trước. Thứ hai, Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc chuyển đổi mô hình từ “kinh tế tuyến tính” sang “KTTH” góp phần phát triển nền kinh tế nhanh và bền vững. Thứ ba, việc khuyến khích và tạo cơ chế cho kinh tế tư nhân phát triển trong bối cảnh thị trường cạnh tranh sẽ có nhiều cơ hội cho đầu tư của khu vực tư nhân vào thực hiện phát triển KTTH trong thời gian tới. Thứ tư, Việt Nam đã và đang hướng đến cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, thực hiện phát triển KTTH gắn với công nghệ cao, chuyển từ thế giới thực sang thế giới số sẽ là cơ hội lớn nhằm nâng cao hiệu quả tăng trưởng so với cách thức tăng trưởng trước đây. Thứ năm, áp lực của thiếu hụt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, lượng chất thải lớn, nhất là chất thải nhựa sẽ giảm xuống khi phát triển KTTH. Thứ sáu, phát triển KTTH sẽ nhận được sự đồng thuận cao và ủng hộ của xã hội, vì cách thức phát triển này giải quyết được sự khan hiếm tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu và mang lại hiệu quả kinh tế cao.

3.1 Giải pháp thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam

Từ thực tiễn và lý luận trên, nhằm thúc đẩy quá trình phát triển KTTH tại Việt Nam, thời gian tới cần tập trung triển khai một số giải pháp sau:

Giải pháp chung

Thứ nhất, phát triển KTTH là giải pháp tất yếu để nâng cao chất lượng tăng trưởng, cải thiện năng lực cạnh tranh quốc gia, bảo đảm sản xuất và tiêu dùng bền vững; phân bổ, quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, tạo việc làm...

Thứ hai, phát huy sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị, quán triệt các cấp ủy đảng, chính quyền; tăng cường tuyên truyền rộng rãi trong toàn xã hội về yêu cầu thực tiễn, vai trò, ý nghĩa, lợi ích và tầm quan trọng của phát triển KTTH, trong đó, cộng đồng doanh nghiệp và người dân đóng vai trò trung tâm.

Thứ ba, lãnh đạo, chỉ đạo việc rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các cơ chế, chiến lược, chính sách, pháp luật thúc đẩy phát triển KTTH, phù hợp với chủ trương của Đảng, xu thế mới, những quy định, tiêu chuẩn đã và đang hình thành trong khu vực và trên quy mô toàn cầu.

Thứ tư, đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ, lấy chuyển đổi số và ứng dụng thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 làm động lực để phát triển KTTH.

Thứ năm, phát huy nội lực, tranh thủ hỗ trợ quốc tế để thực hiện các cam kết của Việt Nam; khuyến khích, huy động cộng đồng doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân tăng cường đầu tư vào phát triển KTTH.

3.2. Giải pháp cụ thể

Một là, cần có một hành lang pháp lý rõ ràng cho hình thành, phát triển KTTH, từ chủ trương của Đảng đến pháp luật của Nhà nước.

Hai là, triển khai nghiên cứu sâu rộng về phát triển KTTH từ cách tiếp cận chung toàn cầu, nguyên tắc xác lập theo ngành, lĩnh vực, triển khai mô hình, tiêu chí của mô hình KTTH, từ đó lựa chọn vận dụng cụ thể vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam và phổ biến rộng rãi đến DN, người dân, các nhà quản lý để có sự nhìn nhận đúng.

Ba là, phát triển KTTH dựa trên các ngành, lĩnh vực và địa phương đã và đang triển khai các mô hình kinh tế gần với cách tiếp cận KTTH, từ đó bổ sung hoàn thiện và có sự lựa chọn phù hợp cho từng ngành, lĩnh vực từ thí điểm đến triển khai nhân rộng.

Bốn là, tạo cơ chế để hình thành động lực thị trường dựa trên các tiêu chí của hiệu quả đầu tư, khuyến khích DN, người dân, nhất là khu vực tư nhân đầu tư, thực hiện phát triển các lĩnh vực thuộc KTTH, xác lập rõ vai trò của DN trong việc thực hiện phát triển KTTH.

Năm là, tăng cường trao đổi, học hỏi kinh nghiệm quốc tế, nhất là các quốc gia đã và đang thực hiện thành công KTTH, từ đó chuyển giao và áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.

Thứ sáu, thực hiện phát triển KTTH cần có lộ trình và ưu tiên trong phát triển dựa trên nhu cầu thị trường và đòi hỏi của xã hội.

Thứ bảy, phân loại rác tại nguồn và rác sau khi phân loại phải được thu gom, làm sạch, vận chuyển đưa vào tái sử dụng, tái chế.

3.3. Một số kiến nghị

Về phía cơ quan quản lý: Hoàn thiện hành lang pháp lý phục vụ cho phát triển nền KTTH. Cần quy định cụ thể trách nhiệm của nhà sản xuất, nhà phân phối trong việc thu hồi, phân loại và tái chế hoặc chi trả chi phí xử lý các sản phẩm thải bỏ dựa trên số lượng sản phẩm bán ra trên thị trường. Xây dựng mô hình tăng trưởng kinh tế chiều sâu, sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu vào, áp dụng khoa học công nghệ vào các ngành. Quy định lộ trình thay thế các nhiên liệu, sản phẩm sử dụng nguyên liệu nguy hại, sản phẩm sử dụng một lần bằng các nhiên liệu, nguyên liệu thân thiện với môi trường, sản phẩm sử dụng nhiều lần. Tập trung các nguồn lực [tài chính, công nghệ và nhân lực] cho việc thực hiện chuyển đổi sang phát triển KTTH.

Về phía cộng đồng DN: Nâng cao nhận thức của các nhà sản xuất và công chúng về trách nhiệm của họ đối với các sản phẩm trong suốt vòng đời của chúng. DN cần chú trọng đầu tư công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường trong hoạt động sản xuất.

Về phía người dân: Nâng cao nhận thức trong việc sử dụng, khai thác nguồn tài nguyên; thay đổi phương thức canh tác, sản xuất trong nông nghiệp; thay đổi ý thức trong tiêu dùng các sản phẩm. Bên cạnh đó, cần nâng cao năng lực của cộng đồng trong việc tuyên truyền người dân thực hiện bảo vệ môi trường, đưa nhiều mô hình sản xuất và tiêu dùng xanh “không ảnh hưởng đến thế hệ tương lai”.

Tóm lại, chuyển dịch từ kinh tế tuyến tính sang KTTH đang là xu thế chung của cộng đồng thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Để thực hiện được định hướng này đòi hỏi phải có sự nỗ lực của mọi thành phần trong xã hội, đặc biệt doanh nghiệp là động lực trung tâm, Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, dẫn dắt và cộng đồng tham gia thực hiện để thay đổi cả về nhận thức và hành vi của toàn xã hội.

[1] Pearce, D.W. and R.K. Turner [1990], Economics of Natural Resources and the Environment, Hemel Hempstead: Harvester Wheatsheaf.

                                                                                            Viện đào tạo Sau đại học

Video liên quan

Chủ Đề