Hướng dẫn tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng

- Thứ nhất, về khách thể loại của tội phạm: Trần Ngọc K và quân nhân, được giao nhiệm vụ làm thủ kho vũ khí của Sư đoàn; trách nhiệm của K là quản lý, bảo quản tất cả các loại vũ khí có trong kho, đảm bảo an toàn về số lượng và chất lượng sử dụng của các loại vũ khí. Nhưng do đã không làm đúng chức trách, nhiệm vụ được giao, như: không tiến hành kiểm tra, nắm chắc số lượng vũ khí trong kho; không ghi chép đầy đủ vào sổ theo dõi người vào kho; chìa khóa kho và chìa khóa tủ súng để không đúng nơi quy định, cuối giờ làm việc không gửi chìa khóa vào bảo mật của đơn vị; tự ý bàn giao chìa khóa kho cho người khác không đúng quy định dẫn đến hậu quả là mất 08 khẩu súng ngắn K54. Đối với 08 khẩu súng K54, thuộc quyền quản lý, sử dụng của Sư đoàn, nhưng vì hành vi vi phạm của K dẫn đến mất số vũ khí này; theo đó, hành vi của K đã xâm phạm đến khách thể là chế độ quản lý vũ khí quân dụng của quân nhân. Do vậy, hành vi vi phạm này của K thuộc nhóm “các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu” được quy định trong BLHS.

- Thứ hai, Điều 414 BLHS quy định: “Người nào được giao quản lý, được trang bị vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự mà làm mất hoặc vô ý làm hư hỏng gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt...”. Đối chiếu với quy định này cho thấy, người được giao quản lý vũ khí quân dụng ở đây là K, thực tế xảy ra là K đã làm mất vũ khí quân dụng [08 khẩu súng ngắn K54]. Vấn đề đặc ra trong quy định này là người làm mất vú khí quân dụng phải gây ra hậu quả nghiêm trọng, nếu gây ra hậu quả không nghiêm trọng thì không cấu thành tội phạm. Để xác định như thế nào là hậu quả nghiêm trọng thì cần phải căn cứ vào văn bản hướng dẫn áp dụng dưới luật. Hiện nay đối với nhóm tội này trong BLHS hiện hành chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể; tuy nhiên, chúng ta có thể áp dụng tinh thần của Thông tư liên tịch số 01/2003/ TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP-BQP ngày 11/8/2003 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XXIII “Các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân”[1] của BLHS năm 1999, thì “gây hậu quả nghiêm trọng” là trường hợp làm mất “từ 03 đến 10 khẩu súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên”[2]. K đã làm mất 08 khẩu súng ngắn K54, nên được xác định là đã gây hậu quả nghiêm trọng.

- Thứ ba, khoản 1 Điều 360 BLHS quy định: “Người nào có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao thuộc một trong các trường hợp sau đây... thì...:

a] Làm chết người;

b] Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c] Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

d] Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”.

Theo quy định này thì khi người có chức vụ, quyền hạn vì thiếu trách nhiệm hoặc không thực hiện đúng nhiệm vụ được giao gây ra hậu quả chết người, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000đ trở lên thì mới cấu thành tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”. Trong vụ việc Trần Ngọc K làm mất 08 khẩu súng ngắn K54, chưa xác định được giá trị là bao nhiêu, nếu dưới 100.000.000đ thì không cấu thành tội phạm “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”; nếu giá trị 08 khẩu súng từ 100.000.000đ trở lên thì chúng ta phải xác định khách thể loại của nhóm tội này có thuộc trường hợp của K hay không?

Tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” thuộc nhóm tội “Các tội phạm về chức vụ”. Đối chiếu trường hợp của K, nếu xem xét về chức vụ, quyền hạn, rõ ràng K cũng là người có chức vụ, quyền hạn; nhưng nhóm tội này điều chỉnh chung đối với những người có chức vụ quyền hạn, trong đó điều chỉnh đối với người là quân nhân. Tuy nhiên, do đối với quân nhân được điều chỉnh riêng thành một nhóm tội khác, nên khi K có hành vi phạm tội thuộc nhóm tội đó thì phải xem xét trách nhiệm hình sự của K theo nhóm tội đặc trưng riêng đó. Do vậy, hành vi của K phải xem xét trách nhiệm hình sự về tội phạm nhóm “các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu” mới phù hợp và đúng quy định của BLHS.

Từ các phân tích trên, chúng tôi cho rằng, đối với trường hợp Trần Ngọc K vì thực hiện không đúng nghĩa vụ, trách nhiệm dẫn đến làm mất 08 khẩu súng K54 của Sư đoàn, phải được xem xét trách nhiệm hình sự về nhóm “các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu”. Theo đó, Trần Ngọc K phạm tội “làm mất vũ khí quân dụng” theo quy định tại Điều 414 BLHS.

Trên đây là quan điểm của chúng tôi về xác định trách nhiệm hình sự đối với hành vi làm mất vũ khí quân dụng của Trần Ngọc K, mong bạn đọc cùng trao đổi làm rõ tính chất của vụ việc./.

 

[1] Theo Quyết định số 355/QĐ-TANDTC ngày 08/10/2021 quyết định về việc công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực toàn bộ thuộc lĩnh vực của Tòa án nhân dân, thì Thông tư 01/2003/ TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP-BQP hết hiệu lực, nhưng vụ việc xảy ra trước thời gian hiệu lực của Quyết định nên có thể áp dụng tinh thần của Thông tư liên tịch.

[2] Tiểu mục d Mục 6 Phần II Thông tư liên tịch 01/2003/ TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP-BQP.

Tình tiết giảm nhẹ [TTGN] trách nhiệm hình sự là tình tiết của vụ án hình sự có ý nghĩa làm giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, phản ánh  nhân thân hoặc hoàn cảnh nhất định của người phạm tội đáng được “Giảm nhẹ trách nhiệm hình sự” . Các TTGN trách nhiệm hình sự có thể được áp dụng đối với người phạm tội được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự [BLHS] nó được xem là một trong những căn cứ mà Tòa án phải xem xét khi quyết định hình phạt để đảm bảo quyền lợi hợp pháp đối với bị cáo. Thực tiễn xét xử trong thời gian qua, cơ bản việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được áp dụng đúng. Tuy nhiên, vẫn còn có tình tiết còn có nhiều cách hiểu, áp dụng khác nhau, trong cả các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử; trong đó có TTGN trách nhiệm hình sự “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn” tại điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS.

1.Về khái niệm thiệt hại”

Hiện nay, có ý kiến cho rằng, thiệt hại tại điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS là hậu quả vật chất. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, thiệt hại tại điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS không chỉ là hậu quả về vật chất mà chúng bao gồm cả những thiệt hại về tinh thần, sức khỏe, thể chất. Bởi vì, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc trong những tội có cấu thành tội phạm vật chất, đối với những tội có cấu thành tội phạm hình thức thì hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc nhưng thiệt hại thì có thể xảy ra đối với cả tội có cấu thành tội phạm vật chất và tội có cấu thành tội phạm hình thức. Chẳng hạn đối với tội hiếp dâm được quy định tại Điều 141 BLHS mặc dù đây là tội có cấu thành tội phạm hình thức nhưng khi người phạm tội đã thực hiện hành vi giao cấu [sau hành vi dùng vụ lực, đe dọa dùng vũ lục…] thì thiệt hại về thể chất, tinh thần của người bị hại đã xảy ra.

Vì vậy, có thể khẳng định thiệt hại tại điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS bao gồm thiệt hại về vật chất, thể chất và tinh thần; thiệt hại này không đồng nhất với hậu quả của tội phạm và có khi hậu quả của tội phạm xảy ra nhưng thiệt hại lại không xảy ra và ngược lại.

2.Về ý thức chủ quan của người phạm tội đối với thiệt hại

Điểm giống nhau ở hướng dẫn tại Sổ tay Thẩm phán củaTANDTC và Công văn số 994/VKSTC-V3  ngày 09/4/2012 của Vụ 3  VKSNDTC về thiệt hại tại điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS là thiệt hại xảy ra nằm ngoài ý thức chủ quan của người phạm tội. Bên cạnh đó, còn có ý kiến cho rằng, thiệt hại có thể xảy ra ngoài ý thức chủ quan của người phạm tội nhưng cũng có thể trong dự tính của người phạm tội. Bởi vì, trong một số trường hợp mặc dù có điều kiện để gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại lớn nhưng người phạm tội lại lựa chọn cách thức không gây thiệt hại [như dùng dao chỉ hù dọa người bị hại để xin đểu, khi bị phản ứng lại thì ném dao bỏ chạy] hoặc gây thiệt hại không lớn [có thể chiếm đoạt số tiền hàng trăm triệu nhưng người phạm tội lại chỉ lấy đủ tiền đi xe] như dự định ban đầu của mình.

Về vấn đề này, chúng tôi cho rằng quan điểm theo hướng dẫn của TANDTC, VKSNDTC là phù hợp. Bởi vì, thiệt hại ngoài ý thức chủ quan của người phạm tội được hiểu là dự tính thực hiện tội phạm của người phạm tội không có ý nghĩa để xem xét thiệt hại chưa xảy ra hay xảy ra không lớn. Nếu cho rằng, khi thực hiện tội phạm người phạm tội đã dự tính sẽ không gây thiệt hại hay gây thiệt hại không lớn thì người phạm tội sẽ được xem xét giảm nhẹ với tình tiết tại điểm a khoản 1 Điều 51 BLHS “Người phạm tội đã … làm giảm bớt tác hại của tội phạm”. Và thiệt hại chưa xảy ra hay xảy ra không lớn có sự chủ động của người phạm tội.

3.Về khái niệm “chưa gây thiệt hại”

Qua nghiên cứu từ Sổ tay Thẩm phán của TANDTC và Công văn số 994/VKSTC-V3  ngày 09/4/2012 của Vụ 3 VKSNDTC, chúng tôi thấy:

Theo theo điểm 6.2.1.7  Sổ tay Thẩm phán TANDTC năm 2009 hướng dẫn “Chưa gây thiệt hại là khi tội phạm đã được thực hiện, nhưng thiệt hại không xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội. Cần phân biệt với phạm tội chưa đạt [phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội].”

Tại văn bản số 994/VKSTC-V3 ngày 09/4/2012 của VKSNDTC gửi VKSND tỉnh Thanh Hóa có hướng dẫn “Chưa gây thiệt hại” là trường hợp hậu quả vật chất do hành vi phạm tội chưa xảy ra trên thực tế như trộm cắp chưa lấy được tài sản, chưa chuyển dịch tài sản ra khỏi nơi quản lý của chủ tài sản. Nếu đã dịch chuyển tài sản ra khỏi nơi quản lý của chủ tài sản mà bị quần chúng phát hiện, đuổi theo và bị bắt quả tang hay được cơ quan điều tra thu hồi trong quá trình điều tra thì không thuộc trường hợp chưa gây thiệt hại”.

Chính từ hướng dẫn thiếu thống nhất nêu trên mà thực tiễn áp dụng về khía niệm “chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn” tại tình tiết điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS giữa Tòa án và Viện kiểm sát có sự thiếu thống nhất. Chúng tôi xin đưa ra hai ví dụ về việc áp dụng tình tiết này.

Ví dụ: Khoảng 02 giờ 30 phút ngày 11/8/2019, V đã vào tòa Nhà N2, Bệnh viện Quân y 103, lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, gồm 03 chiếc điện thoại di động của chị D và anh H. Tổng giá trị tài sản mà V đã trộm cắp là 20.200.000 đồng. Khi V mang tài sản vừa trộm cắp được ra đến cổng bệnh viện thì bị Công an và bảo vệ bệnh viện đuổi bắt, kiểm tra hành chính, lập biên bản sự việc thu giữ các điện thoại trộm cắp trả cho chị D và anh H.

Trong trường hợp này, hành vi của V đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS vì tài sản trộm cắp là 03 chiếc điện thoại đã dịch chuyển ra khỏi nơi quản lý của chủ sở hữu; nếu áp dụng theo hướng dẫn của VKSND tối cao thì V không được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “chưa gây thiệt hại” theo điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015; tài sản chưa bị thiệt hại là do V bị phát hiện, đuổi bắt và thu lại được. Còn nếu áp dụng theo hướng dẫn của TANDTC thì trong trường hợp này V vẫn được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “chưa gây thiệt hại” vì V đã thực hiện hành vi trộm cắp nhưng hậu quả không xảy ra, việc V bị bắt và thu giữ 03 chiếc điện thoại đã trộm cắp được là nằm ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội.

Cần phải hiểu điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 quy định hai TTGN được phân biệt với nhau bằng từ “hoặc”. Tuy có hướng dẫn và nhận thức khác nhau nhưng Hội đồng xét xử cần đánh giá trong từng vụ án cụ thể để áp dụng cho đúng. “chưa gây thiệt hại” nghĩa là chưa có thiệt hại xảy ra trong thực tế; “thiệt hại không lớn” nghĩa là đã có thiệt hại xảy ra trong thực tế do hành vi phạm tội của người phạm tội gây ra. Do vậy, khi áp dụng tình tiết “chưa gây thiệt hại” thì sẽ không thể áp dụng tình tiết “gây thiệt hại không lớn”

Một ví dụ khác:  Vụ án Cao Xuân D phạm tội “Trộm cắp tài sản”: Khoảng 21 giờ ngày 23/9/2018, Cao Xuân D rủ Nguyễn Việt A đi lên tầng 3 công trình xây dựng Nhà khách Quân khu 1, quan sát thấy anh Bùi Trung T là người lắp đặt hệ thống điều hòa tại công trình đã ngủ, D và A đã lấy trộm số tài sản, gồm: 03 cuộn dây điện loại 1×2,5mm2; 02 cuộn dây điện loại 1×1,5mm2; 05 cuộn ống đồng phi 6; 05 cuộn ống đồng phi 12 là tài sản của Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng và kỹ thuật 29, Tổng Công ty 319, Bộ Quốc phòng đang thuộc quản lý của anh T. D và A đã cho 05 cuộn dây điện vào trong bao tải màu trắng có sẵn ở trong phòng và cùng bê tất cả số tài sản trên đi cầu thang bộ xuống tầng 1, đi qua sảnh Nhà khách đến hàng rào bằng tôn của công trình rồi ném tất cả số tài sản qua hàng rào xuống bãi cỏ rậm để cất giấu. Đến khoảng 22 giờ 30 phút cùng ngày, D và A đến nơi cất giấu, mang số tài sản vừa trộm cắp được đi tìm nơi tiêu thụ thì bị tổ tuần tra Công an phường Tân Thịnh, thành phố Thái Nguyên kiểm tra, phát hiện, lập biên bản sự việc và thu giữ tang vật.

Trong vụ án này, quan điểm giữa Tòa án và Viện kiểm sát không thống nhất:

Theo quan điểm của Tòa án thì hành vi trộm cắp của D bị lực lượng chức năng phát hiện trước khi bị cáo đưa tài sản đi tiêu thụ, tài sản trộm cắp đã được thu hồi nguyên vẹn, vì vậy hành vi phạm tội của D chưa gây thiệt hại.

Theo quan điểm của Viện kiểm sát thì hành vi trộm cắp của D đã gây mất trật tự trị an tại nơi quản lý tài sản của Quân đội, tuy chưa có thiệt hại cụ thể về vật chất nhưng đã có hậu quả phi vật chất là gây ảnh hưởng đến sự an toàn, danh dự, uy tín của đơn vị nên cần áp dụng tình tiết qui định ở ý 2 điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS “… gây thiệt hại không lớn”.

Chúng tôi đồng tình với quan điểm của Tòa án vì trong tội phạm xâm phạm sở hữu đã xâm phạm đến khách thể là quan hệ sở hữu và trật tự an toàn xã hội nên việc xác định hậu quả phi vật chất là vô cùng khó khăn, cần dựa vào căn cứ thiệt hại mà tội phạm đã thực hiện có xảy ra trên thực tế hay không [bất kể chúng được thu do bắt quả tang hay người phạm tội tự nguyện giao trả…].

Như vậy, giữa hướng dẫn của VKSNDTC và của TANDTC nêu trên đã có sự khác nhau, dẫn đến khó khăn cho các địa phương trong quá trình vận dụng. Theo hướng dẫn tại Văn bản số 994 của VKSNDTC có thể hiểu chỉ tội phạm ở giai đoạn phạm tội chưa đạt thì mới xem xét tình tiết giảm nhẹ “chưa gây thiệt hại” cho người phạm tội, còn khi tội phạm đã hoàn thành thì không thể áp dụng. Còn theo hướng dẫn tại Sổ tay Thẩm phán của TANDTC thì chưa gây thiệt hại là khi tội phạm đã được thực hiện hay nói cách khác đã hoàn thành về mặt hành vi, nhưng thiệt hại [hậu quả] không xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội và khi áp dụng tình tiết này, cần phân biệt với phạm tội chưa đạt, có nghĩa là đã xác định là thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt thì không được coi là chưa gây thiệt hại.

4.Về khái niệm “thiệt hại không lớn”

Việc xác định thế nào là thiệt hại không lớn chưa có sự thống nhất trong thực tiễn. Hiện nay, tồn tại hai quan điểm về căn cứ xác định thiệt hại không lớn. Ý kiến thứ nhất cho rằng, thiệt hại không lớn là thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại do người phạm tội mong muốn. Ý kiến khác lại cho rằng, thiệt hại không lớn nếu chúng không lớn so với mức bình thường. Khi xác định hậu quả như thế nào là bình thường cần căn cứ vào các quy định cụ thể của từng loại tội phạm, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm, thiệt hại cụ thể đã gây ra cho người bị hại và cho xã hội [cả thiệt hại vật chất và thiệt hại phi vật chất] trong từng trường hợp cụ thể.

Chúng tôi cho rằng, căn cứ xác định thiệt hại không lớn như ý kiến thứ nhất là chưa hợp lý. Bởi vì, nếu thiệt hại mà người phạm tội mong muốn không đáng kể thì dưới mức người phạm tội mong muốn sẽ gây ra thiệt hại không đáng kể. Chẳng hạn, vì không có tiền đi xe nên T đã dùng dao hù dọa buộc L phải đưa cho T số tiền 200.000 đồng để T đón xe về. Nếu cho rằng T phải chiếm đoạt dưới mức 200.000 đồng mới được áp dụng tình tiết “thiệt hại không lớn” là chưa phù hợp. Nguợc lại, mong muốn của người phạm tội là rất lớn thì khi người phạm tội chưa đạt được mong muốn của mình thì thiệt hại cũng vô cùng lớn. Chẳng hạn, biết A vừa mới rút 1 tỷ đồng tiền tiết kiệm từ Ngân hàng mang về nhà nên B [là bà con của A đến nhà A chơi] đã lợi dụng lúc A đi ra phía sau, mở tủ lấy bọc tiền mà B vừa rút ở Ngân hàng về nhưng số tiền mà B chiếm đoạt chỉ có 700 triệu đồng do A không rút hết tiền gửi tiết kiệm. Trường hợp này, rõ ràng số tiền 700 triệu đồng là thiệt hại rất lớn nhưng nếu theo hướng dẫn của TANDTC thì B vẫn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ vì “thiệt hại không lớn”.

Theo chúng tôi thì quan điểm xác định “thiệt hại không lớn” như ý kiến thứ hai là phù hợp với thực tiễn áp dụng hiện nay và có căn cứ. Bởi vì, việc phân hóa trách nhiệm hình sự đối với mỗi tội phạm là khác nhau nên hậu quả [thiệt hại] của mỗi tội phạm gây ra cho xã hội là khác nhau. Hơn nữa, hành vi vi phạm đối với từng tội trong thực tiễn cũng diễn biến đa dạng nên không thể quy định một mức cụ thể để xác định “thiệt hại không lớn”. Cho nên, việc dành quyền xem xét, áp dụng cho Hội đồng xét xử đánh giá khi cá thể hóa hình phạt trong từng trường hợp cụ thể như ý kiến thứ hai là phù hợp, tránh sự tùy tiện và bao quát mọi tình huống xảy ra trong thực tiễn.

Vì vậy, hướng dẫn về việc xác định thiệt hại không lớn tại điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS cần dựa vào mức độ thiệt hại xảy ra trên thực tế cho người bị thiệt hại và cho xã hội [cả thiệt hại vật chất, thể chất, tinh thần], các quy định cụ thể của từng loại tội phạm, tính chất mức độ nguy hiểm của tội phạm trong từng trường hợp cụ thể. Riêng thiệt hại về tinh thần thì nên hạn chế áp dụng TTGN tại điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS và chỉ áp dụng TTGN này khi thiệt hại đó không ảnh hưởng đến hoạt động, sinh hoạt bình thường của người bị thiệt hại. Việc xác định thiệt xảy ra không lớn không phụ thuộc vào loại tội mà người phạm tội vi phạm, không phụ thuộc đó là tội phạm cấu thành vật chất hay cấu thành hình thức mà có thể chỉ ít nhiều phụ thuộc vào tính chất của tội phạm là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng mà thôi.

Từ các phân tích trên, chúng tôi rất mong cơ quan có thẩm quyền sớm có hướng dẫn áp dụng TTGN quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS để có sự áp dụng thống nhất trong thực tiễn.

Xét xử hai bị cáo bị truy tố về tội trộm cắp tài sản – Ảnh: thaibinhtv.vn   

Video liên quan

Chủ Đề