Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của môn học tư tưởng hồ chí minh là:

Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của môn học tư tưởng hồ chí minh là:

 

 Môn Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ môn khoa học có đối tượng, nhiệm vụ, chức năng và phương pháp nghiên cứu riêng. Nghiên cứu đối tượng, nhiệm vụ, chức năng và phương pháp nghiên cứu của môn này là điều kiện cơ bản, đầu tiên cho việc tiếp tục đi sâu, nghiên cứu, học tập các nội dung khác trong bộ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.

I. ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ CỦA MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.

1. Đối tượng của môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Để xác định đối tượng của môn Tư tưởng Hồ Chí Minh cần thống nhất những nội dung cơ bản của khái niệm “Tư tưởng Hồ Chí Minh”.

 Về khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh    

Trong những năm qua, nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nhiều nhà khoa học đã đưa ra những định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy cách biểu đạt và chất lượng có sự khác nhau, nhưng các định nghĩa đó đều chỉ ra cơ sở hình thành, nội dung cơ bản và ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu hiện nay, có thể định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh như sau:

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -  Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội (giai cấp) và giải phóng con người. 

Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một tập hợp đơn giản những suy nghĩ, nhận thức của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam ở những hoàn cảnh cụ thể, mà là một hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc về cách mạng Việt Nam. Đó là, tư tưởng về vấn đề dân tộc và giải phóng dân tộc; về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội; về Đảng Cộng sản Việt Nam; về đại đoàn kết dân tộc; về quân sự; về xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về văn hoá; về đạo đức và nhân văn; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về phương pháp cách mạng;về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân... Nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

 Tư tưởng Hồ Chí Minh là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua, ngày nay tiếp tục soi sáng công cuộc đổi mới xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, của Đảng và nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn.

Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam, mà còn của cả loài người tiến bộ. Tư tưởng của Người không chỉ có giá trị lịch sử  mà còn có ý nghĩa thời đại sâu sắc.

 Về đối tượng nghiên cứu của môn Tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung phong phú và giá trị nhiều mặt, nên không chỉ môn Tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn nhiều môn khoa học khác cũng quan tâm nghiên cứu. Song, góc độ tiếp cận, nội dung, mục đích và yêu cầu nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh của các môn khoa học là khác nhau. Có môn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm góp phần làm sáng tỏ những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, có môn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm góp phần làm rõ những quy luật, nguyên tắc của một lĩnh vực, một mặt nhất định trong đời sống con người, xã hội. Để đạt được mục đích nghiên cứu của mình, có môn khoa học tập trung nghiên cứu một hoặc một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, có môn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết và chủ yếu với tư cách như là một biểu hiện đặc thù của ý thức cá nhân; chỉ có môn Tư tưởng Hồ Chí Minh là nghiên cứu toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh, với tư cách một chỉnh thể hoàn chỉnh. Mặt khác, bất kỳ một môn khoa học nào cũng lấy quy luật, những nguyên tắc mang tính quyluật phản ánh một mặt nào đó của sự vật, hiện tượng trong hiện thực làm đối tượng nghiên cứu của mình. Môn Tư tưởng Hồ Chí Minh nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết cần làm rõ những quy luật, nguyên tắc mang tính quy luật của sự hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, môn này nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ yếu cần làm rõ nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó chính là những nội dung phản ánh một phần hệ thống những quy luật, nguyên tắc mang tính quy luật của cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Hơn nữa, môn Tư tưởng Hồ Chí Minh nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, không chỉ để nhận thức đúng về tư tưởng của Người, mà còn nhằm phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Vì thế,  môn Tư tưởng Hồ Chí Minh nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh còn cần làm rõ những nguyên tắc mang tính quy luật về sự vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng của Người vào thực tiễn cách mạng nước ta  hiện nay.             

Như vậy, trên cơ sở kết quả nghiên cứu hiện nay có thể khẳng định, đối tượng nghiên cứu của môn Tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm những quy luật, nguyên tắc sau:

  Thứ nhất, những quy luật, nguyên tắc mang tính quy luật của sự ra đời, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Trước hết là, những quy luật (nguyên tắc) về mối quan hệ biện chứng giữa điều kiện khách quan với nhân tố chủ quan; giữa một nhân tố trong nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh (giá trị truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại, chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới, những phẩm chất nhân cách) với chính tư tưởng của Người. Đó còn là, mối quan hệ tổng hoà, biện chứng của tất cả các nhân tố này trong suốt quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.

-   Thứ hai, những quy luật,  nguyên tắc mang tính quy luật  về sự  vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới được phản ánh trong tư duy Hồ Chí Minh. Đó chính là các nội dung tư tưởng của Người phản ánh những quy luật, nguyên tắc mang tính quy luật của cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và cách mạng xã hội chủ nghĩa trong thời đại ngày nay; những quy luật, nguyên tắc mang tính quy luật về khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, chiến tranh cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng đảng và nhà nước kiểu mới, xây dựng nền văn hoá mới và con người mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, quá độ lên chủ nghĩa xã hội không trải qua chế độ tư  bản chủ nghĩa... như Việt Nam.  

- Thứ ba, những nguyên tắc mang tính quy luật về sự vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng của Người vào thực tiễn cách mạng nước ta hiện nay. Những nguyên tắc này phản ánh sự tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa sự vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh với các điều kiện, yếu tố (nhân tố) cơ bản trong hoàn cảnh mới. Sự vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam hiện nay, trước hết phụ thuộc vào sự tác động, ảnh hưởng của  một số nhân tố cơ bản như: Nhận thức của chúng ta về tư tưởng Hồ Chí Minh; khả năng vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp Mác - Lênin của chúng ta vào việc áp dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh; thực trạng vận động, phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thực trạng hệ thống tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân; thành tựu phát triển khoa học - công nghệ, phát triển lý luận; kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của các nước trên thế giới; sự chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.

 Trong đó, đối tượng nghiên cứu cơ bản, chủ yếu của môn Tư tưởng Hồ Chí Minh là những quy luật, nguyên tắc mang tính quy luật về sự vận động, phát triển ở các lĩnh vực cơ bản (chính trị, quân sự, kinh tế,  đạo đức, văn hoá,  ngoại giao, ...) của cách mạng Việt Nam được phản ánh trong tư duy Hồ Chí Minh.

2. Nhiệm vụ của môn Tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trên cơ sở đối tượng, môn Tư tưởng Hồ Chí Minh có những nhiệm vụ chính sau:

 Nghiên cứu, làm rõ về nguồn gốc, quá trình hình thành, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó chỉ ra quy luật ra đời, phát triển tư tưởng của Người.

 Nghiên cứu, luận giải làm sáng tỏ cơ sở hình thành và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về các lĩnh vực cơ bản (chính trị, quân sự, ngoại giao...), từ đó chỉ ra quy luật và những nguyên tắc mang tính quy luật của cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới được phản ánh trong tư duy Hồ Chí Minh.

 Nghiên cứu, làm rõ giá trị lý luận, thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, góp phần phê phán các quan điểm, tư tưởng và hành động sai trái, phản động.

 Nghiên cứu, làm rõ những nguyên tắc mang tính quy luật của sự vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.

II. CHỨC NĂNG CỦA MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH.

1. Chức năng nhận thức.

 Thông qua việc nghiên cứu, giảng dạy, trang bị cho người học hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, môn Tư tưởng Hồ Chí Minh giúp cho người học hiểu rõ quy luật vận động, phát triển và bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao nhận thức về những quy luật, nguyên tắc mang tính quy luật của cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Đồng thời đến lượt nó, hệ thống tri thức đó, lại góp phần tạo nên cơ sở lý luận trực tiếp giúp người học có thể tiếp tục nâng cao nhận thức về tình hình xã hội, thực tiễn cách mạng trong thời kỳ mới. Hiểu biết toàn diện và sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở quan trọng để người học tiếp thu, quán triệt đường lối đổi mới của Đảng một cách khoa học.

2. Chức năng thế giới quan, phương pháp luận.

 Môn Tư tưởng Hồ Chí Minh trang bị cho người học những nội dung sâu sắc trong tư tưởng của Người, góp phần giúp họ hình thành phát triển tư duy biện chứng, xây dựng, củng cố thế giới quan, phương pháp luận khoa học để xem xét, phân tích đánh giá các hiện tượng lịch sử, nhất là các mặt cơ bản trong đời sống xã hội Việt Nam một cách khoa học và đề ra được phương pháp hoạt động đúng đắn. Mặt khác, môn Tư tưởng Hồ Chí Minh vận dụng các quan điểm, nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, với sự phát triển sáng tạo trong phương pháp của Người. Trên cơ sở đó, môn học này còn góp phần làm phong phú thêm thế giới quan, phương pháp luận duy vật biện chứng của  người nghiên cứu, học tập tư tưởng của Hồ Chí Minh .

3. Chức năng giáo dục tư tưởng.

Môn Tư tưởng Hồ Chí Minh nghiên cứu, khẳng định, làm rõ cho người học tính đúng đắn sáng tạo, giá trị khoa học của hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc của Hồ Chí Minh và kiên quyết đấu tranh, phê phán chống các quan điểm phản diện, khuynh hướng tư tưởng sai trái, cơ hội, phản động trên mặt trận lý luận tư tưởng. Hơn nữa, môn Tư tưởng Hồ Chí Minh trang bị cho người học những tư tưởng của một vĩ nhân, đã và đang có ảnh hưởng sâu sắc đến khối óc và con tim, lý trí và tình cảm của hàng triệu người trong và ngoài nước. Vì vậy, môn Tư tưởng Hồ Chí Minh có vai trò to lớn đối với việc giáo dục tư tưởng con người, đặc biệt trong giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng đạo đức, nâng cao giác ngộ cách mạng, kiên định lập trường giai cấp công nhân, củng cố niềm tin cộng sản, lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng mà Đảng và nhân dân ta tiến hành.

4. Chức năng chỉ đạo, hướng dẫn thực tiễn

Môn Tư tưởng Hồ Chí Minh nghiên cứu, luận giải, giúp cho người học nhận thức đúng đắn về tư tưởng Hồ Chí Minh. Môn học này còn trang bị cho người  học những quan điểm, nguyên tắc, nội dung và yêu cầu vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta trong giai đoạn lịch sử mới. Từ đó, nó góp phần giúp cho tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục vận động, phát triển, thấm sâu và ngày càng phát huy tác động, ảnh hưởng tích cực trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Mặt khác, tư tưởng Hồ Chí Minh lý luận về con đường cách mạng Việt Nam trong thời đại ngày nay, bao giờ cũng có vai trò chỉ đạo, hướng dẫn thực tiễn.  Vì vậy, trên cơ sở nghiên cứu, trang bị cho người học nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh và thông qua vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thực tiễn, mà môn Tư tưởng Hồ Chí Minh thực hiện được  chức năng chỉ đạo, hướng dẫn thực tiễn của mình.

Những chức năng trên của môn Tư tưởng Hồ Chí Minh có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và có khả năng xâm nhập vào nhau. Vì vậy, việc phân chia các chức năng của môn Tư tưởng Hồ Chí Minh như trên chỉ mang tính chất tương đối.

III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1. Thế giới quan, phương pháp luận Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng chỉ đạo quá trình nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thế giới quan, phương pháp luận Mác - Lênin là tinh hoa trí tuệ của loài người, là thế giới quan, phương pháp luận khoa học. Tất cả các môn khoa học, trước hết là các khoa học xã hội muốn trở thành môn khoa học thật sự thì phải luôn đứng vững trên nền tảng tư tưởng khoa học của mình, đó là thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin. Môn Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không nằm ngoài cái chung đó.

Quá trình nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần vận dụng tổng hợp phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Điều đó đặt ra trong quá trình nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh phải quán triệt sâu sắc và đảm bảo đầy đủ tính khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cần đảm bảo tính chân thật, đúng như nó vốn có, không thêm, không bớt; nghiên cứu toàn diện  hệ thống các quan điểm về kinh tế, chính trị, văn hoá, đạo đức, quân sự... trong điều kiện lịch sử cụ thể đã nảy sinh những tư tưởng đó. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần gắn liền với thân thế và sự nghiệp của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là những tín điều “chết cứng” bất động, mà nó luôn đổi mới, bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với sự vận động, biến đổi của lịch sử, của thực tiễn cách mạng.Vì thế, cần nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh trong một quá trình sinh thành, phát triển ngày càng hoàn thiện, gắn liền với những dự báo khoa học thiên tài của Hồ Chí Minh.

 2. Tuân thủ nguyên tắc thống nhất tính đảng với tính khoa học.

Môn tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như tất cả các môn khoa học xã hội khác, đều cần quán triệt sâu sắc nguyên tắc thống nhất tính Đảng Cộng sản với tính khoa học. Quán triệt nguyên tắc này, đòi hỏi người nghiên cứu, học tập phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, đảm bảo tính chân thực trong việc nghiên cứu, truyền thụ và học tập, gắn liền với việc phê phán những khuynh hướng tư tưởng thần thánh hoá hoặc hạ thấp vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, góp phần phê phán các quan điểm tư tưởng sai trái, phản động khác của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

3. Kết hợp chặt chẽ phương pháp lô gích với phương pháp lịch sử.

Trong nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, cần kết hợp chặt chẽ phương pháp lô gích với phương pháp lịch sử. Kết hợp chặt chẽ phương pháp lô gích với phương pháp lịch sử có vai trò đặc biệt quan trọng trong nghiên cứu, học tập tư tưởng của Người. Phương pháp lịch sử giúp chúng ta nhận thức về mặt lịch sử quá trình tư duy của Hồ Chí Minh; thấy rõ hoàn cảnh lịch sử cụ thể đã hình thành, phát triển những quan điểm tư tưởng của Người, gắn liền với các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam ở các thời kỳ, giai đoạn lịch sử khác nhau trong tiến trình của cách mạng Việt Nam. Phương pháp lô gích giúp chúng ta tìm ra những  nội dung, những mối liên hệ cơ bản, cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong quá trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp lịch sử và phương pháp lô gích, tuy là hai phương pháp khác nhau, nhưng luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Muốn hiểu biết bản chất, quy luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thì phải hiểu lịch sử phát sinh, phát triển của tư tưởng đó; ngược lại có nắm được bản chất, quy luật trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thì mới nhận thức được lịch sử của tư tưởng đó một cách đúng đắn và sâu sắc. Phương pháp lô gích phải dựa trên các tài liệu lịch sử để khái quát và chứng minh bản chất, quy luật của sự vật hiện tượng; còn phương pháp lịch sử muốn đạt kết quả đúng đắn, sâu sắc thì cần phải nắm vững cái lô gích của sự vật. Vì vậy quá trình nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh phải kết hợp chặt chẽ cả hai phương pháp đó.

 4. Sử dụng các phương pháp liên ngành khác.

Bên cạnh việc tuân thủ các phương pháp mang tính chuyên ngành nói trên, thì việc vận dụng các phương pháp liên ngành khác như: phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học, tiếp xúc với các nhân chứng lịch sử... cũng là những phương pháp cần thiết trong nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh.

IV. Ý NGHĨA VIỆC NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

1. Kiên định, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Quá trình nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng chính là quá trình  người học nhận thức ngày càng sâu sắc bản chất cách mạng, khoa học và sức sống mãnh liệt của tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời, góp phần xây dựng, củng cố, phát triển những nhận thức đúng đắn của họ về chủ nghĩa Mác - Lênin.

Theo Hồ Chí Minh, bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, khoa học, cách mạng nhất, soi sáng cho chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin  cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử đất nước, con người và văn hoá Việt Nam, đáp ứng những đòi hỏi về lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Cách mạng nước ta có được những thắng lợi to lớn như ngày nay, trước hết là nhờ có chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng ta đã khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Vì vậy, phải coi trọng việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng ta. 

Nghị quyết số 09 - NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá VII) về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay đã chỉ rõ: “Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là học thuyết cách mạng và khoa học, là vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc ta... Khi các thế lực thù địch ra sức tấn công nền tảng tư tưởng của Đảng nhằm đẩy chúng ta đi chệch hướng thì đấu tranh để bảo vệ, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề quan trọng, trở thành nhiệm vụ hàng đầu trong công tác chính trị, tư tưởng và lý luận của toàn Đảng, toàn dân ta”[1].

Học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội là nguồn bổ sung trực tiếp cho đội ngũ chính trị viên trong quân đội. Theo Hồ Chí Minh, chính trị viên  là người tiêu biểu về phẩm chất, năng lực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và “con đường chính trị là cái kim chỉ nam của đội”, chính trị viên là người nắm cái kim chỉ nam ấy. Nghị quyết số 51 NQ/ TW của Bộ Chính trị (khoá IX) “Về việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ chính uỷ, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam” cũng khẳng định: chính trị viên là “người chủ trì về chính trị và cơ quan chính trị đảm nhiệm công tác đảng, công tác chính trị của đơn vị”[2]. Vì vậy, để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, trước hết người chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam phải kiên định, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,  nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

2. Nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo trong học tập và công tác.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu cho chúng ta một tấm gương sáng chói về tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đổi mới và sáng tạo. Người đã tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những giá trị truyền thống của dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại, nhất là vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Một trong những nét đặc sắc nhất của phương pháp, phong cách Hồ Chí Minh là luôn luôn xuất phát từ thực tế, kiên quyết tránh sự lặp lại đường mòn, lối cũ, không ngừng đổi mới và sáng tạo. Nhờ đó, Hồ Chí Minh đã xây dựng được một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam

  Ngày nay, thế giới đang có những biến đổi nhanh chóng, phức tạp về kinh tế, chính trị, xã hội. Trên thế giới, hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn; nhưng vẫn tiềm ẩn những bất chắc khó lường. Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động lật đổ, ly khai, khủng bố diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau đều đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, vừa hợp tác vừa đấu tranh, quan niệm về độc lập và chủ quyền cũng mang những sắc thái mới.

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta sau 20 năm đổi mới (1986 2006), tuy đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt đất nước, nhưng cho đến nay kinh tế nước ta vẫn trong tình trạng kém phát triển và tụt hậu so với nhiều nước, các lĩnh vực văn hoá, xã hội, xây dựng Đảng và Nhà nước... còn nhiều yếu kém mang tính bức xúc.

Nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện, độc lập, tự chủ ngày càng hiện đại nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa cũng còn nảy sinh nhiều vấn đề mới cần quan tâm, giải quyết. Cách mạng nước ta đang đứng trước thời cơ mới, nhưng cũng đang phải đối mặt với  những nguy cơ và thách thức mới .

Trước tình hình đó, để góp phần xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội  cần quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy ý thức độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường trong học tập, công tác. Học viên cần trung thực, tích cực, chủ động, sáng tạo trong tất cả các khâu, các bước của  quá trình học tập như nghe giảng, thảo luận, tự đọc, nghiên cứu tài liệu, ôn tập, thi, kiểm tra...Học viên cần biết tiếp thu, kế thừa và thậm chí phát triển những tri thức, lý luận đã và đang học ở trường một cách chủ động, sáng tạo; chống lối tiếp thu một cách thụ động, sao chép, máy móc.

Theo Hồ Chí Minh, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập tinh thần cách mạng, khoa học, phương pháp biện chứng duy vật để giải quyết những vấn đề trong thực tiễn đặt ra; đồng thời phải từ tổng kết thực tiễn mà bổ sung, phát triển lý luận. “Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”[3]. Hồ Chí Minh còn căn dặn: “Lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động” [4]. Vì vậy, ngay trong quá trình học tập, học viên phải luôn luôn so sánh, đối chiếu và tập vận dụng sáng tạo những tri thức, lý luận đang học vào thực tiễn.  Khi đã trở thành cán bộ chính trị, chính trị viên cấp phân đội, lại càng cần phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, vận dụng và phát triển sáng tạo những điều đã học tại trường vào giải quyết những đòi hỏi, yêu cầu của thực tiễn hoạt động quân sự nói chung, hoạt động công tác đảng, công tác chính trị nói riêng ở đơn vị cơ sở.


[1] Đảng Cng sn Vit Nam: Ngh quyết s 09 - NQ/TW ca B Chính tr v mt s định hướng ln trong công tác tư tưởng hin nay, tr 2,3. 

[2] Đảng Cng sn Vit Nam: Ngh quyết s 51- NQ/TW ca B Chính tr “ V vic tiếp tc hoàn thin cơ chế lãnh đạo ca Đảng, thc hin chế độ mt người ch huy gn vi vic thc hin chế độ chính u, chính tr viên trong Quân đội nhân dân Vit Nam”.Tr 2  

[3] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb CTQG, H. 2002, tp 8, tr.494

[4] H Chí Minh, Toàn tp, Nxb CTQG, H. 2002, tp 8, tr.496