Dấu hiệu giang mai ở nam hải phòng

Giang mai là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm và khá phổ biến. Bệnh lây truyền chủ yếu qua đường tình dục, nhưng cũng có thể lây qua đường máu, hoặc truyền từ người mẹ bị bệnh sang thai nhi.

Bệnh có thể lây truyền theo nhiều con đường khác nhau nhưng phổ biến nhất vẫn là lây truyền qua đường tình dục nên bệnh được xếp vào nhóm bệnh lây truyền qua đường tình dục [sexually transmitted disease – STD]. Do đó, với những đối tượng có mối quan hệ ngoài hôn nhân mà thường xuyên không có sử dụng các biện pháp tình dục không an toàn, là những đối tượng nguy cơ cao mắc bệnh này. Đồng thời cũng có thể trở thành trung gian truyền bệnh cho người khác [như vợ hoặc chồng của người đó].

Bệnh giang mai diễn biến trong nhiều năm [10, 20, 30 năm] với đặc điểm là diến biến qua nhiều thời kỳ, có giai đoạn cấp tính với nhiều biểu hiện lâm sàng đặc trưng xen kẽ với những thời kỳ bệnh ẩn không có triệu chứng gì, làm cho người bệnh lầm tưởng đã khỏi và có thể lây truyền cho thế hệ sau.

Nếu không được điều trị, bệnh có thể ảnh hưởng đến nhiều cơ quan, bộ phân của cơ thể như bộ phận sinh dục, da, niêm mạc và còn có thể tấn công cả vào tất cả các phủ tạng, đặc biệt là hệ tim mạch và thần kinh trung ương, gây nhiều biến chứng. Bệnh có nhiều hình thái lâm sàng đa dạng khác nhau nên chẩn đoán nhiều khi khó khăn dễ nhầm với một số bệnh khác. Bệnh có thể ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ bệnh nhân, thậm chí gây tử vong hoặc tàn phế suốt đời nếu không được điều trị kịp thời và ảnh hưởng tới sự phát triển nòi giống của dân tộc.

Bệnh giang mai là do xoắn khuẩn giang mai [Treponema pallidum] gây nên. Loại xoắn khuẩn này được Schaudinn và Hauffman tìm ra vào năm 1905. Đây là những vi khuẩn có hình lò xo, bao gồm 6-14 vòng xoắn.

Sức đề kháng của xoắn khuẩn giang mai rất yếu, ra ngoài cơ thể nó sống được không quá vài giờ, chết nhanh chóng trong môi trường khô ráo nhưng trong môi trường ẩm ướt nó có thể tồn tại khoảng 2 ngày. Vi khuẩn giang mai dễ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố lý hoá [oxy không khí, nhiệt độ, iốt, thuỷ ngân, asen…], nhạy cảm với sự biến đổi pH. Xà phòng và thuốc sát trùng thông thường có thể giết được xoắn khuẩn sau vài phút. Nhiệt độ cao khô và hanh làm xoắn khuẩn dễ chết [42oC/30phút]. Nhiệt độ thích hợp là 30-37oC. Vi khuẩn chịu lạnh tốt: 4ôC/24-28 giờ, ở -30oC/4-5 ngày, -78ôC vi khuẩn sống được nhiều năm và vẫn còn khả năng gây bệnh.

Xoắn khuẩn giang mai còn chịu tác động của nhiều loại kháng sinh nên việc điều trị dứt điểm bệnh không quá khó khăn.

Người mắc bệnh giang mai là nguồn mang mầm bệnh duy nhất, ngoài ra không còn từ nguồn nào khác từ động vật hay côn trùng. Vi khuẩn giang mai gây bệnh cho người sau khi xâm nhập trực tiếp vào cơ thể khi quan hệ tình dục không được bảo vệ [đường âm đạo, hậu môn hay cá biệt có cả đường miệng], qua các vết xước trên da, niêm mạc khi tiếp xúc với dịch tiết từ tổn thương giang mai. Do cấu tạo của bộ phận sinh dục ở dạng mở mà người phụ nữ dễ bị lây nhiễm các bệnh tình dục hơn nam giới, kể cả bệnh giang mai. Xoắn khuẩn giang mai còn có thể lây truyền từ mẹ sang con trong thời kỳ bào thai từ tháng thứ 4 trở đi, do xoắn khuẩn này xâm nhập máu thai nhi qua dây rốn. Ngoài ra, bệnh còn có thể lây truyền qua đường máu [qua truyền máu bị nhiễm giang mai hoặc tiêm chích ma tuý mà bơm tiêm không vô khuẩn]. Bệnh giang mai không lây lan khi bạn sử dụng chung nhà vệ sinh, bồn tắm, quần áo hoặc các dụng cụ ăn uống với người bệnh.

Bệnh giang mai tiến triển qua 3 thời kỳ: giang mai 1, giang mai 2, giang mai 3. Giữa các thời kỳ còn xen kẽ 1 giai đoạn không có triệu chứng lâm sàng gọi là giang mai kín.

Giang mai thời kỳ 1 và 2 là giai đoạn sớm của bệnh và trong giai đoạn này, bệnh có khả năng lây lan mạnh. Sau đó bệnh diễn biến sang giai đoạn không triệu chứng lâm sàng gọi là giang mai kín-muộn, sau đó đến giang mai 3. Ở giai đoạn muộn này bệnh không lây.

Xoắn khuẩn giang mai xâm nhập cơ thể và qua hệ thống mạch máu lan nhanh ra toàn thân, sau thời gian ủ bệnh sẽ xuất hiện các tổn thương da tại các vị trí tiếp xúc. Các tổn thương này không gây đau trong khi đó vẫn có vi khuẩn tồn tại ở trong đó, bệnh nhân thường không chú ý nên sẽ không có ý thức phòng tránh việc lây nhiễm cho người khác nên bệnh rất dễ lây trong giai đoạn này. Nếu được phát hiện và điều trị kịp thời thì có thể điều trị khỏi hoàn toàn mà không để lại di chứng gì.

Giai đoạn này xuất hiện sau thời gian ủ bệnh trung bình khoảng 3 – 4 tuần và kéo dài khoảng 1-2 tháng với triệu chứng đặc trưng là vết trợt hay loét giang mai còn gọi là Săng [chancre] xuất hiện ở chỗ xoắn khuẩn xâm nhập vào cơ thể. Ở nam giới vết trợt, loét thường khu trú chủ yếu ở bộ phận sinh dục; ở trực tràng, quanh hậu môn đối với người có quan hệ đồng giới. Còn ở nữ giới, trợt thường xuất hiện ở cổ tử cung, thành âm đạo, mặt trong môi lớn và môi bé, âm vật. Ngoài ra còn có thể ở một số vị trí khác như họng, lưỡi hoặc môi, ở trên trán, ở vú, có khi ở ngón tay [nhất là đối với nữ hộ sinh đỡ đẻ cho bệnh nhân giang mai].

Vết trợt giang mai có đặc điểm: vết trợt nông, hình tròn hoặc bầu dục, kích thước từ 0,3 đến 3 cm, có màu đỏ tươi, không ngứa, không đau, không có mủ, không có vảy, thường xuất hiên đơn độc một cái nhưng cũng khi có nhiều thành đám, kèm theo nổi hạch hai bên vùng bẹn, cứng và không đau. Các triệu chứng trên có thể tự hết sau 3 đến 6 tuần [kể cả không điều trị] nên nhiều người tưởng lầm là khỏi bệnh nhưng thực sự là vi khuẩn lúc đó đã vào máu. Nếu được điều trị, xoắn khuẩn hết sau 24-40 giờ và thương tổn lành nhanh chóng.

Xảy ra sau giai đoạn 1 từ 4 – 10 tuần. Đây là thời kỳ vi khuẩn theo máu đến xâm nhập vào tất cả các cơ quan phủ tạng. Tổn thương đa dạng nhưng chưa phá huỷ tổ chức nên có thể hồi phục hoàn toàn nếu được điều trị kịp thời. Ở giai đoạn này bệnh có khả năng lây lan rất mạnh vì ở tất cả các tổn thương đều có xoắn khuẩn. Giai đoạn này có rất nhiều biểu hiện khác nhau, ví dụ như:

  • Đào ban là các dát màu hồng, căng da thì mất, thường thấy ở vùng bụng, mạng sườn, bả vai, các nếp gấp của tay, chân. Nếu không điều trị gì, các ban này cũng mất đi để lại một vệt có nhiễm sắc tố.
  • Mảng niêm mạc: là những vết trợt màu hồng đỏ ở niêm mạc sinh dục nam, nữ, đôi khi ở miệng, môi, lưỡi, hâụ  môn. Chúng có đặc điểm là không đau và cũng có nhiều xoắn khuẩn nên rất dễ lây
  • Viêm hạch lan toả: các hạch nhỏ, rắn, xuất hiện nhiều nơi như cổ, dưới cằm, sau tai, nách, bẹn, cùi tay. Đây là một dấu hiệu giúp ích cho chẩn đoán.
  • Rụng tóc rừng thưa: rụng tóc lốm đốm không đều nham nhở. Nguyên nhân là do có đào ban ở trên da đầu gây rụng tóc. Tóc sẽ mọc lại sau khi đã điều trị khỏi giang mai.
  • Có thể có các mảng sẩn, nốt phỏng nước, vết loét ở da và niêm mạc.
  • Tại các khu vực ẩm ướt của cơ thể [thường là âm hộ hoặc bìu], phát ban trở nên bằng phẳng, rộng, màu trắng, hoặc các thương tổn giống như mụn cóc.
  • Ngoài ra còn có thể gặp 1 số triệu chứng khác: sốt, đau họng, mệt mỏi, sụt cân, đau đầu, nổi hạch. Một số trường hợp hiếm gặp có thể kèm theo viêm gan, thận, viêm khớp, viêm màng xương, viêm dây thần kinh thị giác, viêm màng bồ đào, và viêm giác mạc kẽ.

Các thương tổn của giang mai 2 tiến triển thành từng đợt, có thể kéo dài từ 2 – 6 tuần nhưng cũng có thể dài đến 2 năm. Các thương tổn này có thể tự mất dù không được điều trị và chuyển sang thể ẩn [giang mai ẩn].

Thời kỳ này có thể chia làm 2  giai đoạn: Phát hiện chủ yếu nhờ xét nghiệm giang mai [+], không có biểu hiện lâm sàng.

* Giang mai 2 kín – sớm: không có triệu chứng lâm sàng nhưng vẫn có thể lây cho người khác. Các thương tổn này nếu không được điều trị cũng sẽ biến mất và chuyển sang thời kỳ giang mai 2 kín – muộn.

* Giang mai 2 kín – muộn:

Ở  thời kỳ này, bệnh nhân ít lây sang người lành khi tiếp xúc, bệnh nhân tưởng đã khỏi, tuy nhiên vẫn có thể lây cho thai nhi thành giang mai bẩm sinh.

Giai đoạn này có thể kéo dài nhiều năm, thậm chí suốt đời,  bệnh nhân không có triệu chứng gì. Tuy nhiên, 1/3 số bệnh nhân này sang năm thứ 3 trở đi sẽ thấy các triệu chứng của giang mai 3.

Thường xuất hiện sau 3 – 5 năm bị bệnh [mà không điều trị], thậm chí là sau 10 năm. Người ta cũng nhận thấy chỉ có khoảng 30-50% sau này chuyển thành giang mai 3. Tổn thương tuy khu trú nhưng lại xâm nhập sâu, phá huỷ tổ chức, gây nên những di chứng không hồi phục, thậm chí tử vong cho bệnh nhân. Bệnh ở giai đoạn này cơ bản là đã không còn khả năng lây. Nhưng người mắc bệnh mang thai vẫn có khả năng sinh ra con bị giang mai bẩm sinh. Thời kỳ này các xét nghiệm huyết thanh vẫn [+]. Ta có thể phân chia giang mai thời kỳ 3 thành 3 thể:

* Củ [hay gôm] giang mai:  tiến triển thường là bị hoại tử hoặc bị loét, rất chậm lành, ít lây hơn, sau khi khỏi thường để lại sẹo. Nếu củ khu trú vào các vị trí quan trọng, nếu không được điều trị có thể đe doạ đến tính mạng bệnh nhân.

* Giang mai tim mạch: chiếm khoảng 10% các bệnh nhân giang mai, thường xuất hiện muộn, khoảng 10 – 40 năm sau khi bị bệnh. Tổn thương thường gặp nhất là viêm động mạch chủ. Ngoài ra còn có thể bị giãn và phình động mạch chủ, thậm chí là vỡ phình mạch, tổn thương van tim do giang mai [ví dụ: hở động mạch chủ].

* Giang mai thần kinh: là bệnh liên quan đến hệ thống thần kinh trung ương. Giang mai thần kinh thường xảy ra 4-25 năm sau khi nhiễm bệnh. Bệnh có thể gây suy nhược, trầm cảm, rối loạn ý thức từng thời kỳ, động kinh, đột quỵ hay gây ra ảo giác đối với người bệnh.

  • Giang mai và thai nghén [giang mai bẩm sinh ].

Sự lây truyền bệnh giang mai từ mẹ sang thai nhi xảy ra từ tháng thứ 4, thứ 5 trở đi [tuần thứ 16, 18, 19 của thai kì] khi máu mẹ và máu con giao lưu qua hồ máu làm xoắn khuẩn giang mai từ máu mẹ sang thai nhi. Tuỳ theo mức độ nhiễm bệnh nhiều hay ít mà có những biểu hiện khác nhau:

+ Giang mai bẩm sinh sớm [xuất hiện trong hai năm đầu].

Nếu thai nhi bị nhiễm xoắn khuẩn nặng thì sẽ gây sảy thai ở tháng thứ 5, 6 hoặc chết lưu.

Nếu nhiễm khuẩn nhẹ hơn, thai nhi có thể đẻ đủ tháng nhưng thường là đẻ ra chết ngay.

Trường hợp trẻ đẻ ra bình thường thì sau vài ngày hoặc 6 – 8 tuần sẽ thấy xuất hiện tổn thương giang mai mang tính chất của thời kỳ 2, như bọng nước lòng bàn tay, bàn chân, chảy nước mũi lẫn máu hoặc đau các đầu chi. Hoặc trẻ đẻ ra gầy gò, da nhăn nheo như ông già, bụng to, gan và lách to.

+ Giang mai bẩm sinh muộn [xuất hiện sau sinh 3 – 4 năm hoặc lâu hơn].

Các triệu chứng giang mai bẩm sinh muộn thường mang tính chất của giang mai giai đoạn 3, có thể không có biểu hiện lâm sàng mà chẩn đoán phải dựa vào phản ứng huyết thanh [giang mai kín]. Các triệu chứng thường gặp là:

  • Viêm mống mắt kẽ hay xuất hiện lúc dậy thì, bắt đầu bằng các triệu chứng nhức mắt, sợ ánh sáng ở 1 bên, về sau cả 2 bên. Có thể dẫn đến mù.
  • To 2 đầu gối, có nước, không đau xuất hiện lúc 16 – 20 tuổi.
  • Điếc cả 2 tai bắt đầu từ 10 tuổi, thường kèm theo viêm mống mắt kẽ.
  • Tổn thương xương: thủng vòm miệng, mũi tẹt, trán dô.
  • Lấy bệnh phẩm tại các vị trí tổn thương [các vết trợt, loét, dịch tiết, chọc hạch …] rồi tiến hành soi tươi trên kính hiển vi [nền đen] thấy hình ảnh các vi khuẩn hình lò xo đang di động;
  • Các phản ứng huyết thanh như VDRL, Kahn, Citochol, FTA …

Chẩn đoán bệnh giang mai dựa vào:

– Tiền sử quan hệ tình dục không an toàn.

– Dựa vào triệu chứng lâm sàng săng giang mai, đào ban, mảng niêm mạc, sẩn giang mai, rụng tóc, hạch …

– Dựa vào xét nghiệm chẩn đoán giang mai.

  • Không  dừng uống thuốc hoặc tự ý thay đổi liều dùng dù bạn có cảm thấy khỏe hơn cho đến khi bác sĩ cho phép.
  • Báo cho bác sĩ nếu bạn đang mang thai. Lây nhiễm bệnh giang mai cho thai nhi là rất nguy hiểm.
  • Báo cho bác sĩ nếu bạn bị dị ứng với bất kỳ loại thuốc nào, đặc biệt với penicillin.
  • Rửa tay thường xuyên để tránh lây truyền bệnh.
  • Sử dụng các biện pháp quan hệ tình dục an toàn như dùng bao cao su.
  • Báo cho bạn tình biết về việc điều trị giang mai của bạn để họ đi kiểm tra.
  • Tránh quan hệ ít nhất 2 tuần sau khi chữa trị hoặc cho đến khi bác sĩ cho phép.
  • Kiểm tra các bệnh lây qua đường tình dục khác.
  • Xây dựng lối sống lành mạnh, chung thủy một vợ, một chồng.

Điều trị bệnh giang mai trên thế giới hiện nay đều sử dụng penicilline chậm tiêu [Benzathine penicilline]. Bệnh có thể được điều trị khỏi hoàn toàn, tuy nhiên không thể phục hồi được các tổn thương do biến chứng gây ra. Do đó nguyên tắc quan trọng nhất là cần phải được điều trị sớm, đủ liều và đúng thời gian quy đinh.

Video liên quan

Chủ Đề