Dân số trung quốc hiện nay là bao nhiêu

Theo báo cáo Triển vọng Dân số Thế giới năm 2022 mới công bố của Liên hợp quốc [UN], Trung Quốc và Ấn Độ là hai quốc gia đông dân nhất thế giới với lần lượt 1,412 tỷ và 1,426 tỷ người trong năm 2022.

UN dự báo Ấn Độ sẽ vượt qua Trung Quốc trở thành nước đông dân nhất thế giới vào năm 2023. Nước này được dự báo sẽ có dân số 1,668 tỷ người vào năm 2050. Trong khi đó, dân số Trung Quốc giảm xuống còn 1,317 tỷ người vào giữa thế kỷ.

UN cảnh báo tỷ lệ sinh cao sẽ là một thách thức với tăng trưởng kinh tế với các quốc gia như Trung Quốc và Ấn Độ.

Theo báo cáo điều tra dân số của Ấn Độ, năm 2011, dân số của nước này là khoảng 1,21 tỷ người. Báo cáo điều tra này được thực hiện 10 năm một lần. Tuy nhiên, năm 2021, Chính phủ Ấn Độ đã phải hoãn cuộc điều tra do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19.

UN cũng dự báo dân số toàn cầu sẽ tăng lên xấp xỉ 8 tỷ người vào ngày 15/11 năm nay và tăng lên 8,5 tỷ người vào năm 2030.

Tới năm 2050, thế giới được dự báo sẽ có 9,7 tỷ người khi tốc độ tử vong chậm lại và đạt đỉnh 10,4 tỷ người vào khoảng những năm 2080. Tổ chức này tin rằng dân số toàn cầu sẽ duy trì ở mức này cho tới khoảng năm 2100.

Dân số thế giới hiện đang tăng với tốc độ chậm kể từ năm 1950 với mức tăng giảm xuống dưới 1% vào năm 2020, theo ước tính của UN.

Năm 2021, mức sinh bình quân toàn cầu là 2,3 trẻ/phụ nữ, giảm từ mức khoảng 5 trẻ vào năm 1950. Mức sinh toàn cầu được dự báo sẽ tiếp tục giảm, xuống 2,1 trẻ/phụ nữ vào năm 2050.

"Đây là dịp để tôn vinh sự đa dạng của chúng ta, công nhận nhân loại chung và kinh ngạc trước những tiến bộ trong y tế đã kéo dài tuổi thọ và giảm đáng kể tỷ lệ tử vong ở bà mẹ và trẻ em", Tổng thư ký UN Antonio Guterres cho biết trong một tuyên bố. “Tuy nhiên, dân số ngày càng tăng cũng là một lời nhắc nhở về trách nhiệm chung trong việc chăm sóc hành tinh của chúng ta và phản ánh xem chúng ta vẫn còn thiếu cam kết với nhau ở đâu”.

Dẫn đến báo cáo trước đó của Tổ chức Y tế Thế giới [WHO], trong đó uớc tính có khoảng 14,9 triệu người tử vong liên quan đến đại dịch Covid-19 từ tháng 1/2020 đến tháng 12/2021, báo cáo của UN cho biết tuổi thọ bình quân toàn cầu đã giảm xuống 71 tuổi vào năm 2021, từ mức 72,8 tuổi vào năm 2019 chủ yếu do đại dịch Covid-19.

Hai khu vực đông dân nhất thế giới năm nay là Đông Á và Đông Nam Á. Trong khi khu vự Đông Á có 2,3 tỷ người, chiếm 29% toàn cầu, thì khu vực Trung và Nam Á có 2,1 tỷ người, chiếm 26% toàn cầu. 

“Hơn một nửa số dân toàn cầu dự kiến tăng đến năm 2050 sẽ tập trung ở 8 quốc gia - Congo, Ai Cập, Ethiopia, Ấn Độ, Nigeria, Pakistan, Philippines và Cộng hòa Tanzania”, báo cáo của UN dự báo.

Tuy nhiên, 61 quốc gia được dự báo sẽ chứng kiến dân số giảm từ 1% trở lên trong khoảng thời gian từ năm 2022 đến 2050 do mức sinh giảm.

Ước lượng tuổi thọ khi sinh [life expectancy at birth] toàn cầu năm 2019 là 72,8 tuổi, tăng gần 9 tuổi so với năm 1990. Tỷ lệ tử vong được dự báo sẽ giảm thêm nữa sẽ dẫn tới tuổi thọ bình quân toàn cầu đạt khoảng 77,2 tuổi vào năm 2050, UN nhận định.

Tuy nhiên, năm 2021, ước lượng tuổi thọ tại các nước kém phát triển nhất thấp hơn 7 năm so với mức bình quân toàn cầu. 

Lần đầu tiên kể từ khi nạn đói khủng khiếp xảy ra cách đây 60 năm, dân số Trung Quốc có xu hướng giảm. Tại sao vậy? Và điều này sẽ ảnh hưởng đến phần còn lại của thế giới như thế nào?

Sự thật là quốc gia đông dân nhất thế giới đang sắp sửa giảm bớt số người.

Trung Quốc chiếm hơn một phần sáu dân số thế giới, tuy nhiên sau bốn thập kỷ phát triển tăng vọt từ 660 triệu lên 1,4 tỷ người, lần đầu tiên kể từ nạn đói khủng khiếp 1959-1961 đến nay, dân số của nước này đang có xu hướng giảm trong năm nay.

Theo số liệu mới nhất từ Tổng cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc, dân số nước này chỉ tăng từ 1,41212 tỷ người lên 1,41260 tỷ người vào năm 2021 - mức tăng thấp kỷ lục là 480.000 người, chỉ bằng một phần nhỏ so với mức tăng hàng năm 8 triệu người trong một thập kỷ trước.

Mặc dù tình trạng ngại sinh con do phải đối mặt với các biện pháp phòng chống chống Covid nghiêm ngặt cũng góp phần làm giảm tỷ lệ sinh, nhưng xu hướng này đã kéo dài từ nhiều năm.

Tỷ suất sinh sản trung bình [số trẻ em sinh ra tính trên một phụ nữ] của Trung Quốc là 2,6 vào cuối những năm 1980 - cao hơn nhiều so với mức 2,1 là mức cần thiết đủ để thay thế tỷ lệ tử vong. Tỷ suất này đã tụt xuống 1,6 đến 1,7 kể từ năm 1994; giảm còn 1,3 vào năm 2020 và chỉ đạt 1,15 vào năm 2021.

Để so sánh thì Úc và Hoa Kỳ có tỷ suất sinh sản là 1,6 lần sinh trên một phụ nữ. Nhật Bản là nơi dân số già nhưng tỷ lệ này cũng đạt 1,3.

Điều này xảy ra bất chấp việc Trung Quốc đã bãi bỏ chính sách "mỗi gia đình chỉ có một con" vào năm 2016 và thay thế bằng chính sách khuyến khích mỗi gia đình nên sinh ba con, thậm chí năm ngoái còn đưa ra hỗ trợ thuế và các ưu đãi khác cho các gia đình sinh nhiều con.

Có nhiều giả thuyết khác nhau giải thích lý do tại sao phụ nữ Trung Quốc vẫn không muốn sinh con kể cả khi được hưởng nhiều ưu đãi của nhà nước.

Một khả năng là người dân đã quen với các gia đình ít con. Một vấn đề khác liên quan đến chi phí sinh hoạt tăng cao, trong khi những người khác cho rằng nó có thể liên quan đến tuổi kết hôn ngày càng tăng, điều này làm trì hoãn việc sinh con và làm giảm mong muốn có con.

Ngoài ra, hiện nay Trung Quốc có ít phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ hơn dự kiến.

Bị giới hạn chỉ được sinh một con kể từ năm 1980, nhiều cặp vợ chồng đã chọn sinh con trai, nâng tỷ số giới tính khi sinh từ 106 trẻ trai trên 100 trẻ gái [là tỷ lệ có ở hầu hết các quốc gia còn lại trên thế giới] tăng vọt lên 120/100, thậm chí ở một số tỉnh mất cân bằng đến tận 130/100.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Sau năm 2021, các nhà nghiên cứu dự đoán rằng hàng năm dân số Trung Quốc sẽ giảm trung bình 1,1%/năm

Những dự phóng do một nhóm nghiên cứu tại Học viện Khoa học Xã hội Thượng Hải đưa ra nói rằng năm nay - lần đầu tiên sau nạn đói - dân số của Trung Quốc sẽ có mức tăng thấp là 0,49 phần nghìn. Tuy nhiên, trên thực tế dân số nước này đã có mức tăng thấp sau nạn đói, chỉ đạt 0,34 trên 1.000 vào năm ngoái luôn rồi.

Bước ngoặt đã đến sớm hơn một thập kỷ so với dự kiến.

Gần đây nhất vào năm 2019, Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc trông đợi dân số sẽ đạt đỉnh vào năm 2029, ở mức 1,44 tỷ người. Phúc trình Triển vọng Dân số của Liên Hiệp Quốc năm 2019 dự kiến đỉnh cao dân số Trung Quốc là 1,46 tỷ sẽ xảy ra muộn hơn, vào năm 2031-32.

Nhóm nghiên cứu của Học viện Khoa học Xã hội Thượng Hải dự đoán mức giảm trung bình hàng năm là 1,1%/năm sau 2021, đẩy dân số Trung Quốc xuống 587 triệu người vào năm 2100, chưa bằng một nửa so với hiện nay.

Các giả định hợp lý đằng sau dự đoán nói trên là tỷ lệ sinh của Trung Quốc giảm từ 1,15 xuống 1,1 trong thời gian từ nay đến năm 2030 và duy trì ở mức đó cho đến năm 2100.

Sự suy giảm dân số nhanh chóng sẽ tác động sâu sắc đến kinh tế Trung Quốc.

Dân số trong độ tuổi lao động của Trung Quốc đạt đỉnh vào năm 2014 và dự kiến sẽ giảm xuống dưới một phần ba mức cao nhất đó vào năm 2100.

Dân số cao tuổi của Trung Quốc [từ 65 tuổi trở lên] dự kiến sẽ tiếp tục tăng trong phần lớn thời gian đó; đến gần năm 2080 lượng người già sẽ nhiều hơn dân số trong độ tuổi lao động của Trung Quốc.

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Chụp lại hình ảnh,

Trung Quốc bãi bỏ chính sách mỗi gia đình chỉ có một con vào năm 2016

Điều này có nghĩa là hiện nay cứ 20 người già được 100 người trong độ tuổi lao động hỗ trợ, thì đến năm 2100, 100 người Trung Quốc trong độ tuổi lao động sẽ phải hỗ trợ tới 120 người Trung Quốc cao tuổi.

Mức giảm trung bình hàng năm là 1,73% dân số trong độ tuổi lao động của Trung Quốc đặt ra bối cảnh cho tăng trưởng kinh tế thấp hơn nhiều, trừ phi năng suất tăng nhanh thần tốc.

Chi phí lao động cao hơn, do lực lượng lao động thu hẹp nhanh chóng, sẽ đẩy các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động thủ công, tỷ suất lợi nhuận thấp ra khỏi Trung Quốc để chuyển sang các nước có nguồn nhân công dồi dào như Việt Nam, Bangladesh và Ấn Độ.

Hiện chi phí lao động sản xuất ở Trung Quốc cao gấp đôi Việt Nam.

Đồng thời, Trung Quốc sẽ phải dành nhiều nguồn lực của mình hơn cho việc cung cấp các dịch vụ y tế, sức khỏe và chăm sóc người cao tuổi để đáp ứng nhu cầu của dân số ngày càng già.

Mô hình của Trung tâm Nghiên cứu Chính sách tại Đại học Victoria ở Úc cho thấy rằng nếu không có thay đổi đối với hệ thống hưu bổng của Trung Quốc thì các khoản chi trả lương hưu của nước này sẽ tăng gấp 5 lần, từ 4% GDP vào năm 2020 lên 20% GDP vào năm 2100.

Đối với các quốc gia xuất khẩu tài nguyên như Australia, những thay đổi này có thể đòi hỏi phải định hướng lại xuất khẩu sang các lãnh thổ khác ngoài Trung Quốc. Đối với các nhà nhập khẩu hàng hóa bao gồm cả Hoa Kỳ, nguồn hàng nhập được điều chỉnh chuyển dần sang các trung tâm sản xuất mới và đang phát triển.

Bất chấp nhiều dự báo rằng đây sẽ là "thế kỷ của Trung Quốc", những giả thiết về dân số này cho thấy mức ảnh hưởng có thể sẽ chuyển sang nơi khác - bao gồm nước láng giềng Ấn Độ, quốc gia có dân số dự kiến sẽ vượt qua Trung Quốc trong vòng thập kỷ tới.

Bành Tu Kiến [Xiujian Peng] làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Chính sách, Đại học Victoria. Trong năm năm qua bà đã được trao những khoản tài trợ từ một số tổ chức, trong đó có Học viện Khoa học Xã hội Thượng Hải, Đại học Nông nghiệp Hà Nam và Viện Nghiên cứu Kinh tế và Công nghệ CHN.

Chủ Đề