Công trình kiến trúc nổi tiếng của Vương quốc Campuchia là gì?

Hãy luôn nhớ cảm ơnvote 5*
nếu câu trả lời hữu ích nhé!

XEM GIẢI BÀI TẬP SGK SỬ 10 - TẠI ĐÂY

Đặt câu hỏi

Campuchia là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương ở vùng Đông Nam Á, giáp với vịnh Thái Lan ở phía Nam, Thái Lan ở phía Tây, Lào ở phía Bắc và Việt Nam ở phía Đông. Campuchia có ngôn ngữ chính thức là tiếng Khmer, thuộc nhóm Môn-Khmer trong hệ Nam Á. Trước thế kỷ XX, người Việt gọi nước này là Chân Lạp.

Kiến trúc Campuchia phần lớn được biết đến nhờ vào những công trình được xây dựng từ thời Khmer cổ đại [khoảng cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII]. Đạo Phật và tư duy huyền thoại có ảnh hưởng lớn đến nghệ thuật trang trí các công trình kiến trúc vĩ đại này.

Những đôi mắt đẹp của tụi nhỏ tại Chợ Đêm Siem Reap.

Đặc trưng cơ bản của kiến trúc tại Campuchia giai đoạn này là được xây dựng từ vật liệu gỗ, tre nứa hoặc rơm rạ và đá. Nhưng những gì còn lại ngày nay người ta có thể chiêm ngưỡng là các công trình bằng đá tảng như các bức tường thành, đường sá,… và các ngôi đền hoặc các con đường có những bao lơn tạc hình con rắn chín đầu, vươn cao 2–3m, xòe rộng phủ bóng xuống mặt đường. Còn hình thức chung của các ngôi đền là có đỉnh chóp nhọn, bốn mặt đền được chạm trổ các bức phù điêu miêu tả cuộc sống con người ở thế giới bên kia, hoặc cuộc sống hiện tại của người dân Campuchia bấy giờ, hay cuộc chiến với nước láng giềng vũ nữ dân gian [Ápsara] với thân hành mềm mại, cân đối đang múa khá uyển chuyển, và sự tham gia của cả những con khỉ, con ngựa trong sử thi Ramanaya của Ấn Độ.

Trái cây tại Campuchia cũng rất phong phú, đa phần được cung cấp từ Thái Lan.

Bên cạnh đó, hình thức khắc những ký tự hay con số cũng rất phổ biến ở công trình. Các ngôi đền thường có một cửa còn ở ba phía còn lại của đền cũng có cửa nhưng chỉ là giả, để tạo cảm giác đối xứng cho ngôi đền. Công trình có tiếng nhất ở đây là ngôi đền Bayon với 200 gương mặt của thần Avalokitesvara [một dạng của Quan Âm Bồ Tát].

Chiêm ngưỡng những công trình này, ta không thể không khâm phục sức mạnh phi thường và bàn tay tài ba của những người dân Khmer cổ đại. Kiến trúc đẹp tại Campuchia cũng có ảnh hưởng lớn đến kiến trúc của Thái Lan và người Chăm của Việt Nam.

Vương cung Campuchia ở thủ đô Phnôm Pênh là một tổ hợp các tòa nhà nơi Vương thất Vương quốc Campuchia được xây dựng từ hơn một thế kỷ trước để phục vụ việc ăn ở, sinh hoạt của quốc vương, gia đình quốc vương và các quan khách nước ngoài, nơi đây còn là nơi diễn ra các cuộc thiết triều, các nghi thức ngoại giao và lễ hội vương thất.

Vương Cung bao gồm một khu phức hợp các di tích bao gồm Vương cung với Chùa Bạc và là sự kết hợp của rất nhiều công trình kiến trúc khác cộng với những khu vườn với rất nhiều hoa kiểng quý đã nhiều năm tuổi. Vương cung và Chùa Bạc tạo thành một quần thể kiến trúc là biểu tượng cho đất nước Campuchia. Công trình nằm quay mặt ra bờ sông thoáng mát, là một đỉa điểm tham quan không thể thiếu trong cuộc hành trình khám phá đất nước Campuchia.

Kiến trúc vương cung Campuchia vô cùng đặc sắc và ấn tượng.

Toàn bộ công trình được xây dựng kiên cố bao gồm nhiều công trình hình tháp cao chót vót – một kiến trúc tiêu biểu của xứ sở chùa Tháp. Toàn bộ công trình được ngăn cách với con đường phía ngoài bằng một bức tường thành với hàng loạt điêu khắc. Các công trình bên trong được trang trí công phu và chăm sóc kỹ lưỡng cùng với khu vườn đầy hoa. Trừ khu vực sinh sống của Vương thất [Cung điện Khemarin], các nơi khác trong Vương Cung và Chùa Bạc được mở cửa cho du khách tham quan. Lối vào Vương Cung ở cổng trên đường Sothearos cách khoảng 100m về hướng Bắc đường 240.

Vương cung có rất nhiều công trình trong đó, có thể kể ra một số công trình chính, đây chỉ là những công trình dành cho khách tham quan và được phép tham quan, phần các công trình khác ngoài bài viết này là phần không được phép tham quan và là khu vực dành cho vương thất.

Một chuyến du lịch của công ty cổ phần tư vấn xây dựng tphcm – Accco.

Du lịch Campuchia cũng giống như một số nước khác, Vương cung Campuchia quy định khá nghiêm ngặt trong việc quy định đồng phục tham quan. Vương cung cấm mặc quần ngắn trên đầu gối, áo thun sát nách, hở hang, cấm mang theo súc vật, vũ khí và mang dép lê. Phòng khánh tiết và Chùa Bạc không được phép mang dép vào. Phòng khánh tiết không được ồn ào và cấm không chụp hình, quay phim.

Giá vé là 10 USD cho một người bao gồm bản đồ và sách hướng dẫn tham quan cho khu phức hợp Vương cung và Chùa Bạc. Vương cung mở cửa hàng ngày từ 7:30-11:30 / 14:00-17:00. Toàn bộ khu Vương cung sẽ đóng cửa khi tổ chức các nghi thức ngoại giao hoặc ngày lễ truyền thống.

Angkor Wat

Angkor Wat là một quần thể đền đài tại Campuchia và là di tích tôn giáo lớn nhất thế giới, rộng 162,6 hecta [1.626.000 mét vuông]. Ban đầu công trình được xây dựng làm đền thờ Ấn Độ giáo của Đế quốc Khmer, và dần dần chuyển thành đền thờ Phật giáo vào cuối thế kỷ XII. Angkor Wat thờ thần Vishnu. Được bảo tồn tốt nhất trong khu vực, Angkor Wat là ngôi đền duy nhất vẫn giữ được vị trí trung tâm tôn giáo. Ngôi đền là đỉnh cao của phong cách kiến trúc Khmer. Nó đã trở thành biểu tượng của đất nước Campuchia, xuất hiện trên quốc kỳ và là điểm thu hút du khách hàng đầu đất nước.

Tổng thể Angkor Wat nhìn từ trên cao.

Angkor Wat là sự kết hợp của hai nét cơ bản của kiến trúc Khmer: kiến trúc đền-núi cùng với những dãy hành lang dài và nhỏ hẹp. Kiến trúc tại Campuchia này tượng trưng cho Núi Meru, quê hương của các vị thần trong truyền thuyết Ấn Độ giáo: nằm giữa một con hào và lớp tường bao dài 3.6 km [2.2 dặm] là khu chính điện ba tầng với kiến trúc hình chữ nhật, kết nối với nhau bởi những dãy hành lang sâu thẳm. Trung tâm của ngôi đền là tổ hợp 5 tháp với một tháp trung tâm và bốn tháp tại bốn góc hình vuông. Không giống những ngôi đền theo phong cách Angkor khác, Angkor Wat quay mặt về phía Tây và vẫn chưa có cách giải thích thống nhất về ý nghĩa của điều này. Ngôi đền được ngưỡng mộ bởi vẻ hùng vĩ và hài hòa của kiến trúc, sự phong phú của nghệ thuật điêu khắc và số lượng lớn các vị thần được trang hoàng trên những bức tường đá.

Tên hiện đại của ngôi đền, Angkor Wat, nghĩa là “Thành phố Đền” hay “Thành phố của những ngôi Đền” trong tiếng Khmer; Angkor, nghĩa là “thành phố” là từ nokor, được bắt nguồn từ từ tiếng Phạn nagara, trong tiếng bản xứ. Wat nghĩa là “sân đền” trong tiếng Khmer.

Đây là địa điểm không bao giờ bỏ lỡ của tất cả khách du lịch ghé thăm Campuchia.

Angkor Wat là một sự kết hợp độc đáo của chùa chiền và núi. Angkor Wat đạt thiết kế tiêu chuẩn của đền thờ cấp quốc gia và các tiêu chuẩn sau này của phòng trưng bày hiện đại. Ngôi đền là một đại diện của núi Meru, quê hương của các vị thần: các quincunx trung tâm của tháp tượng trưng cho năm đỉnh núi, và các bức tường và hào tượng trưng cho các dãy núi bao quanh và đại dương. Khả năng đi vào các khu vực trên cao của đền thờ càng ngày càng khó, với các giáo dân chỉ được vào tầng thấp nhất.

Angkor Wat là ví dụ điển hình của phong cách cổ điển của kiến ​​trúc Khmer—phong cách Angkor Wat. Cho đến thế kỷ thứ XII, các kiến ​​trúc sư Khmer đã trở nên thành thục và tự tin trong việc sử dụng sa thạch [chứ không phải là gạch hoặc đá ong] làm vật liệu xây dựng chính. Hầu hết các khu vực có thể nhìn thấy là các khối sa thạch, trong khi đá ong đã được sử dụng cho các bức tường bên ngoài và cho các bộ phận cấu trúc ẩn. Các vật liệu được sử dụng để kết nối các khối vẫn chưa được xác định, mặc dù các loại nhựa cây hoặc vôi tôi đã được nhắc đến.

Một cửa đền Angkor Wat trong một chuyến du lịch.

Về mặt kiến ​​trúc đặc trưng tại Campuchia, các yếu tố đặc trưng của phong cách bao gồm: các tháp dạng oval giống như búp sen; các hành lang nhỏ để mở rộng lối đi; các phòng dọc theo các trục để kết nối các khoảnh sân; và các bậc thang hình chữ thập xuất hiện dọc theo các trục chính của ngôi đền. Các yếu tố trang trí điển hình là devata [hoặc apsara], phù điêu, và trên các bức tường áp mát là các vòng hoa lớn và những cảnh dẫn truyện.Các bức tượng của Angkor Wat được đánh giá là bảo thủ, thiếu sinh động và thiếu hấp dẫn hơn những công trình ở trên. Các yếu tố khác của thiết kế đã bị phá hủy bởi nạn cướp bóc và thời gian, bao gồm vữa mạ vàng trên tháp, lớp mạ vàng trên một số bức phù điêu, và các tấm trần và cửa ra vào bằng gỗ.

Giữa thế kỷ XIX, nhà tự nhiên học và thám hiểm người Pháp Henri Mouhot đã đến đây và giúp phương Tây biết đến Angkor Wat nhiều hơn bằng các ghi chép của mình. Trong đó ông viết:

    Một trong những ngôi đền đó-một đối thủ của đền Solomon, và được một số Michelangelo thời cổ đại dựng lên – có thể có một chỗ đứng trang trọng bên cạnh những công trình đẹp nhất của chúng ta. Nó vĩ đại hơn tất cả những gì người Hy Lạp hay La Mã để lại cho chúng ta, và thể hiện một sự tương phản đáng buồn cho tình trạng man rợ mà đất nước đang mắc phải.

Bức tường bên ngoài, dài 1,024m [3,360 ft], rộng 802m [2,631 ft] và cao 4.5 m [15 ft], được bao quanh bởi một khu đất rộng 30 m [98 ft] và một con hào rộng 190 m [620 ft]. Lối vào đền là một bờ đất ở phía đông và một đường đắp bằng sa thạch ở phía tây. Lối vào chính ở phía Tây được thêm vào sau, có thể nhằm thay thế cho một cây cầu gỗ. Tại mỗi hướng chính đều có một gopura [kiến trúc cổng vào].

Một kiểu chụp hình mới theo phong cách Angkor.

Từ những năm 1990, Angkor Wat đã trở thành một địa điểm du lịch nổi tiếng tại Campuchia. Năm 1993, chỉ có 7,650 du khách đến đây; đến năm 2004, số liệu chính phủ đã cho thấy đã có 561,000 du khách nước ngoài đến tỉnh Xiêm Riệp, chiếm xấp xỉ 50% lượng du khách nước ngoài đến Campuchia. Đến năm 2007 con số này là trên một triệu, và trên hai triệu vào năm 2012. Phần lớn mọi người đến thăm Angkor Wat với trên 2 triệu du khách nước ngoài năm 2013.

Angkor Thom

Angkor Thom là thành phố thủ đô cuối cùng và lâu dài nhất của Đế quốc Khmer. Thành được vua Jayavarman VII xây dựng vào cuối thế kỷ XII. Thành rộng 9 km², bên trong có nhiều đền thờ từ các thời kỳ trước cũng như các đền thờ được Jayavarman và những người nối nghiệp ông xây dựng. Tại trung tâm thành là ngôi đền quốc gia của Jayavarman, đền Bayon, với các di tích khác quần tụ quanh khu quảng trường Chiến thắng nằm ngay phía Bắc đền.

Điểm nổi bật là các cổng thành hiện rõ kiến trúc hình tháp, trên nóc có 4 chân dung to, đường nét từ bi như mặt Phật.

Thành phố nằm trên bờ hồ Tonle Sap, cách hồ khoảng 1/4 dặm. Cổng phía Nam của Angkor Thom nằm cách thành phố Siem Reap 7,2 km về phía Bắc, cách cổng vào đền Angkor Wat 1,7 km về phía Bắc. Các bức tường thành [cao 8 m, dài 3 km, bên ngoài là hào nước] bao quanh một khu vực rộng 9 km². Tường thành được xây bằng đá ong với bờ công sự trên đỉnh. Tại mỗi hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, có một cổng thành. Các con đường dẫn từ các cổng thành thẳng đến đền Bayon tại trung tâm thành phố. Do bản thân Bayon không có tường hay hào của riêng mình, các nhà khảo cổ học giải thích rằng các tường và hào của thành phố đại diện cho núi và biển bao quanh Núi Meru của Bayon [Glaize 81]. Một cổng khác — Cổng Chiến thắng — nằm cách cổng phía Đông 500 m; con đường Chiến thắng chạy song song với con đường phía đông để dẫn tới Quảng trường Chiến thắng và Cung điện Hoàng gia ở phía Bắc Bayon.

Angkor Thom được xây dựng theo phong cách Bayon. Điều này thể hiện ở quy mô lớn của các công trình, trong việc sử dụng rộng rãi đá ong làm vật liệu xây dựng, trong các tháp mặt người tại các lối vào thành phố và trong hình tượng naga tại mỗi tháp trong khu đền.

Lối vào cổng Nam thành Angkor Thom.

Angkor Thom đã được xây dựng để làm thủ đô vương quốc của Jayavarman VII, và là trung tâm của chương trình xây dựng khổng lồ của ông. Một tấm bia được tìm thấy trong thành phố đã viết về Jayavarman VII như là chú rể và thành Angkor Thom như là cô dâu của ông.

Tuy nhiên, Angkor Thom không phải thủ đô đầu tiên của Khmer tại địa điểm này. Trước đó 3 thế kỷ, Yashodharapura ở gần đó về phía Tây Bắc đã là thủ đô. Angkor Thom trùm lên một phần của thành phố đó. Các đền thờ nổi tiếng nhất của thời kỳ cổ hơn nằm trong thành phố là Baphuon – ngôi đền quốc gia cũ, và Phimeanakas – ngôi đền đã được nhập vào Cung điện Hoàng gia. Người Khmer đã không phân biệt rõ ràng giữa Angkor Thom và Yashodharapura, thậm chí đến thế kỷ 14, một tấm bia vẫn còn sử dụng tên cũ [Higham 138]. Cái tên Angkor Thom — thành phố vĩ đại — đã được sử dụng từ thế kỷ 16.

Một góc khung cảnh Angkor Thom được nhìn từ phía bên trong.

Ngôi đền cuối cùng được biết là đã được xây dựng tại Angkor Thom là Mangalartha, được khánh thành năm 1295. Từ đó, các công trình thỉnh thoảng lại được sửa chữa, nhưng các công trình mới được xây dựng bằng các vật liệu dễ hỏng đã không tồn tại được đến nay. Trong các thế kỷ tiếp theo, Angkor Thom vẫn là thủ đô của vương quốc trong thời kỳ suy tàn cho đến khi nó bị bỏ hoang bắt đầu từ khoảng trước năm 1609, khi một du khách phương Tây viết về một thành phố bỏ hoang: “kỳ diệu như Atlantis của Plato” mà có người cho là đã được xây dựng bởi Hoàng đế La Mã Trajan [Higham 140].

Đền Bayon

Đền Bayon nằm ở trung tâm quần thể Angkor Thom, Campuchia. Đây là ngôi đền ấn tượng nhất của kiến trúc Campuchia do sự hùng vĩ về quy mô cũng như về cảm xúc mà nó đem lại cho người xem. Ngôi đền gồm 54 tháp lớn nhỏ, trên mỗi tháp đều có điêu khắc khuôn mặt của thần Lokesvara, hay còn gọi là thần Avalokitesvara, tượng trưng cho sự quan sát của thần linh về 4 hướng của Campuchia.

Nằm ở trong khu phức hợp quần thể Angkor Thom, Bayon được xem là ngôi đền trung tâm của khu phức hợp Angkor Thom – hay còn gọi là thành Yaxodarapura.

Một chuyến đi du lịch của công ty tnhh phát triển dự án Song Nam.

Cấu trúc của Bayon gồm ba tầng mà cả ba tầng đều đổ nát nhiều, gạch đá nằm ngổn ngang khắp nơi. Hai tầng dưới bố trí theo hình vuông, tô điểm bằng những phù điêu trên tường. Tầng ba được sắp xếp theo hình tròn với nhiều tháp mà các mặt đá có hình khuôn mặt. Dãy hành lang ở tầng dưới là một kho tàng nghệ thuật với 11 ngàn bức phù điêu chạm khắc trên tường đá chạy dài 1200 mét, một tổng hợp liên quan đến lịch sử lẫn các truyền thuyết, miêu tả cảnh diễn hành của vua và hoàng gia, những trận đánh của vua Jayavarman VII với Chiêm Thành bằng cả thủy lẫn bộ chiến, ngoài ra còn miêu tả đời sống văn hóa, xã hội của một nền văn minh đã bị lãng quên từ bao thế kỷ. Nhiều khoảng tường công trình vẫn còn dở dang, chỉ còn để lại nét phát họa. Có lẽ bị bỏ dở khi vua Jayavarman VII qua đời.

    …Đặc biệt vào những đêm trăng, người ta có cảm tưởng như đang viếng một ngôi đền thuộc một thế giới khác… Người ta cảm giác như mình đang sống trở lại với một thời đại của những chuyện thần tiên, lúc mà thần Indra xây dựng một đền thờ dành cho đám cưới của con trai mình lấy con gái của vua rắn Nagas nhiều đầu.
Henri Marshall, người quản thủ khu Angkor, viết trong cuốn Cẩm nang Khảo cổ về các đền ở Angkor

Hình ảnh nổi bật nhất của Bayon vẫn là những ngọn tháp cao vút ở trung tâm bằng đá tảng, chạm khắc thành 4 khuôn mặt nhìn bốn hướng. Kiến trúc đẹp tại Campuchia là Bayon được xem như có phong cách của trường phái baroque, trong khi Angkor thuộc phái cổ điển. Sự tương đồng của vô số khuôn mặt khổng lồ ở trên các tháp của đền Bayon với các bức tượng khác của vua Jayavarman VII khiến nhiều học giả đi đến kết luận đây chính là khuôn mặt của nhà vua.

    Ngài cảm nhận được nỗi khổ của tha nhân hơn của chính mình bởi nỗi khổ của kẻ khác tức là nỗi khổ của ngài, sự đau khổ của thần dân còn lớn hơn nỗi khổ của chính ngài nữa. Chính là vì muốn giải thoát loài người ra biển khổ mà trẫm có ý định trở thành Phật .
Văn bia tìm thấy tại Bayon ghi lại

Trong số hằng trăm ngôi đền nơi quần thể Angkor, Bayon khiến cho các nhà khảo cổ thắc mắc nhiều nhất. Bayon hiện vẫn bao trùm nhiều bí ẩn mà lời giải đáp vẫn đang còn được tranh cãi: nó được xây với biểu tượng gì, để thờ ai? Có lẽ thích hợp với lời giải thích nhất vẫn là khuôn mặt với nụ cười hết sức bí ẩn nằm ở tháp trung tâm. Một số dân Khmer cho rằng Bayon được xây dựng vào thời vương quốc này được chia thành 54 tỉnh, những đôi mắt của những bức tượng này nhìn về phía muôn dân trong các tỉnh đó để cứu độ.

Các tảng đá được xếp một cách ngẫu nhiên trong đền Bayon.

Ngôi đền có thể do may mắn và do một phần chính do sự may mắn của lịch sử. Chính khuôn mặt từ bi của những bức tượng thần bốn mặt đó mà các vị vua sau theo Ấn Độ giáo đã tưởng lầm là khuôn mặt của thần Shiva nên tiếp tục hoàn thiện nó mà không đập bỏ. Khác với những công trình khác có sự đấu tranh về tôn giáo, vị vua trước theo Phật giáo, các vị vua sau theo Ấn Độ giáo sẽ đập bỏ toàn bộ các công trình xây dựng trước đó, và khi các vị vua sau theo Phật giáo sẽ làm việc tương tự và theo quy trình đó, toàn bộ các công trình trong quần thể Angkor Thom hoàn toàn không nguyên vẹn mà có sự đấu tranh tôn giáo gay gắt. Một trong những ngôi đền tiêu biểu cho sự đấu tranh tôn giáo gay gắt nhất là Ta Prohm. Bayon lại may mắn hơn khi khuôn mặt Bồ Tát bốn mặt bị lầm tưởng là thần Shiva nên nó vẫn tồn tại khá nguyên vẹn đến tận ngày nay, dù bị đổ nát do chiến tranh và thời gian. Di tích này hiện nay đang bị đe doạ nghiêm trọng bởi nó là một trong những di tích thu hút du khách. Hiện nay Nhật Bản đã giúp Campuchia khôi phục di tích này.Phần phía bức tường có bức tranh sử thi được trùng tu trước vì sức phá hoại của thiên nhiên đến với các bức tranh này đang diễn ra nhanh chóng.

Thủ Đô Phnom Penh

Phnom Penh là thành phố lớn nhất và là thủ đô của Vương quốc Campuchia. Đây cũng là thủ phủ của thành phố tự trị Phnôm Pênh. Từng được gọi là “Hòn ngọc châu Á” thập niên 1920, Nam Vang cùng với Xiêm Riệp và Sihanoukville, là những thành phố thu hút khách du lịch nội địa và quốc tế nhất của Campuchia. Thành phố này có nhiều toà nhà mang ảnh hưởng kiến trúc Pháp tại Campuchia cùng nhiều công trình đặc sắc của kiến trúc Khmer. Với dân số là 2,2 triệu người [2011], thành phố này là trung tâm chính trị, văn hóa, thương mại của Campuchia.

Tượng đài Độc Lập tại thủ đô Phnom Penh vào ban đêm.

Kiến trúc ở Campuchia lâu đời nhất ở Phnom Penh là đền Wat Phnom, đã xuất hiện từ những ngày sáng lập của thành phố, được xây dựng vào năm 1373. Các điểm du lịch tại Campuchia chính là Vương cung Campuchia với Chùa Bạc và Bảo tàng Quốc gia, được xây dựng trong thời kỳ thuộc địa Pháp vào cuối thế kỷ 19. Phong cách Khmer đã lưu trữ một bộ sưu tập lớn các cổ vật Khmer trong thành phố. Tượng đài Độc lập Phnôm Pênh [Khmer: Vimean Akareach], mặc dù xây từ những năm 1950, cũng được xây dựng theo phong cách Khmer cổ đại.

Người Pháp, là những bậc thầy thuộc địa từ thế kỷ 19 đến thập niên 1940, cũng để lại dấu ấn của họ tại Phnom Penh, với nhiều biệt thự thời thuộc địa, nhà thờ Pháp, đại lộ và chợ Art Deco, Phsar Thom Thmei. Một địa danh nổi tiếng của thời kỳ thuộc địa là Hotel Le Royal.

Thủ đô của Campuchia là nơi lý tưởng để khám phá đất nước này.

Bắt đầu với sự độc lập từ Pháp vào những năm 1950 và kéo dài cho đến thời Khmer Đỏ vào những năm 1970, Phnom Penh trải qua sự phát triển to lớn của thủ đô của một quốc gia mới độc lập. Vua Norodom Sihanouk háo hức trình bày một phong cách kiến ​​trúc mới và do đó thúc đẩy quá trình xây dựng đất nước. Một kỷ nguyên vàng mới của kiến ​​trúc đã diễn ra, với nhiều dự án và các kiến ​​trúc sư trẻ người Khmer, thường được đào tạo ở Pháp, được tạo cơ hội để tham gia thiết kế và xây dựng. Phong trào mới này được gọi là “Kiến trúc Khmer mới” và thường được đặc trưng bởi sự kết hợp của Bauhaus, Kiến trúc Hậu Hiện đại châu Âu và các yếu tố truyền thống từ Angkor. Kiến trúc sư nổi bật nhất là Vann Molyvann, người được đề cử làm kiến ​​trúc sư quốc gia chính bởi nhà vua vào năm 1956. Molyvann đã tạo ra các tòa nhà mang tính bước ngoặt như Nhà hát quốc gia Preah Suramarit và tòa nhà Hội đồng Bộ trưởng. Các kiến ​​trúc sư khác đã giúp xây dựng Đại học Hoàng gia Khmer mới thành lập, Viện Ngoại ngữ và Trung tâm Thể thao Quốc gia.

Với sự phát triển của tầng lớp trung lưu thượng lưu và kinh tế, các vùng ngoại ô mới được xây dựng vào những năm 1950 và 60. Mặc dù các tòa nhà này vẫn tồn tại trong thời kỳ Khmer Đỏ và cuộc nội chiến Campuchia, ngày nay chúng đang bị đe dọa do sự phát triển kinh tế và đầu cơ tài chính. Các biệt thự và khu vườn từ thời cận đại đang bị phá hủy và tái phát triển để xây dựng các công trình lớn hơn. Nhà hát quốc gia mang tính bước ngoặt của Molyvann đã bị gạt bỏ năm 2008. Một phong trào đang gia tăng ở Campuchia để bảo tồn các di sản hiện đại này. Các biệt thự cũ đôi khi được chuyển đổi thành khách sạn boutique, chẳng hạn như Knai Bang Chatt.

Quầy trưng bày rượu của một nhà hàng tại thủ đô Phnom Penh.

Phnom Penh cũng được biết đến với ảnh hưởng của nó đối với kiến trúc Khmer tại Campuchia mới. Ẩm thực Phnom Penh được biết đến với món hủ tiếu Phnom Penh, sự biến đổi của nó trên món phở, một món ăn có sẵn ở các quán cà phê sang trọng cũng như các quán cà phê ‘đường phố’. Thành phố này vừa là trung tâm kinh tế và văn hóa của Campuchia.

Âm nhạc và nghệ thuật đang tạo nên một sự hồi sinh khắp Campuchia, đặc biệt là ở Phnom Penh. Phnom Penh hiện đang tổ chức một số sự kiện âm nhạc trên toàn thành phố. Các ban nhạc ‘Indie’ [những người không có nhà tài trợ của công ty] đã phát triển về số lượng. Hai bảo tàng được viếng thăm nhiều nhất trong thành phố là Bảo tàng Quốc gia Phnom Penh, là bảo tàng khảo cổ và lịch sử hàng đầu của đất nước, và Bảo tàng diệt chủng Tuol Sleng, một nơi từng là nhà tù của chính quyền Khmer Đỏ.

Đền Preah Vihear

Prasat Preah Vihear là một ngôi đền toạ lạc trên một chỏm núi thuộc núi Dângrêk ở Campuchia gần biên giới với Thái Lan. Ngôi đền này được lấy làm tên cho tỉnh Preah Vihear, nơi nó toạ lạc. Năm 2008, ngôi đền được tổ chức UNESCO liệt kê vào danh sách di sản thế giới. Ngôi đền đầu tiên được bắt đầu vào đầu thế kỷ 9 dùng để thờ thần Shiva trong những thế kỷ tiếp theo. Các di vật được tìm thấy ở tỉnh này cho thấy khu vực này là khu định cư quan trọng của Đế quốc Khmer trong thế kỷ 12.

Toàn cảnh đền Preah Vihear được chụp hình từ trên cao.

Đền nằm cheo leo trên dãy núi Dângrêk, một phần vì đền nằm trong khu vực khá nhạy cảm là đường biên giới giữa Campuchia và Thái Lan.

Phần nửa đền nằm bên vườn quốc gia Khao Phra Viharn của huyện Kantharalak thuộc tỉnh Sisaket của Thái Lan, một nửa đền thuộc tỉnh Preah Vihear của Campuchia. Do ngôi đền được xây trên một mỏm đá thuộc lãnh thổ Campuchia [trước đây được cho là lãnh thổ Thái Lan], nhưng lối dẫn vào ngôi đền Preah Vihear nằm trên một vách đá dựng đứng cheo leo và không thể tiếp cận từ phía Campuchia. Điều này có nghĩa là, để tham quan được di sản này bắt buộc du khách phải đi từ phía cổng của vườn quốc gia Khao Phra Viharn của Thái Lan.

Kiến trúc đền với điêu khắc trên đá sa thạch cực kỳ tinh xảo.

Kiến trúc đền tương tự kiến trúc của đền Banteay Srei với điêu khắc trên đá sa thạch cực kỳ tinh xảo. Phần khu vực xung quanh đền với nhiều thự viện và các tháp cao nhưng hiện nay phần lớn các kiến trúc phụ xung quanh đền đều bị đổ nát nghiêm trọng.

Kiến trúc nổi bật Campuchia của ngôi đền chạy theo trục Bắc Nam dài 800 m, và bao gồm một bờ đường đắp cao và những bậc tam cấp dẫn lên điện thờ nằm trên đỉnh khu vực đền thờ phía Nam [cao 120 m so với khu Bắc và 525m so với đồng bằng Campuchia]. Mặc dù cấu trúc này khác với những ngôi đền trên núi khác của Campuchia được tìm thấy ở Angkor, nhưng ngôi đền cũng có cùng mục đích thờ phụng những vị thần ở đỉnh Meru.

Do ngôi đền nằm gần biên giới Campuchia và Thái Lan nên khu vực này bị tranh chấp cho đến 15 tháng 6 năm 1962.

Cột thứ năm theo kiểu kiến trúc Koh Ker vẫn giữ lại những vết sơn đỏ từ thời gian trước mặc dù ngói đỏ bây giờ không còn nữa. Cột thứ 4 nằm ở phía sau có từ triều đại Khleang-Baphuon và là một “kiệt tác của Preah Vihear”. Cột thứ 3 lớn nhất và nằm giữa hai phòng lớn. Muốn đến được đền thờ phải thông qua hai sân liên tiếp nhau.

Trước đây để đến được ngôi đền: từ Thái Lan, có thể đến được ngôi đền thông qua Công viên Quốc gia Khao Phra Wihan. Campuchia cho phép khách viếng thăm ngôi đền không cần visa nhưng thỉnh thoảng biên giới bị đóng cửa vì những lý do khách quan. Campuchia áp dụng phí vào cổng cho khách nước ngoài là 5 đô la Mỹ hay 200 đồng bạt [vào năm 2006, giảm 50 đồng bạt cho du khách đến từ Thái Lan], chỉ cộng thêm 5 đồng bạt phí photo hộ chiếu. Bên cạnh đó, Thái Lan cũng áp dụng một mức phí 200 baht [bạt] để vào cổng công viên quốc gia.

Quần thể Sambor Prei Kuk

Sambor Prei Kuk là một địa điểm khảo cổ nằm ở Kompung Thom, Campuchia. Nó nằm cách thành phố thủ phủ Kampong Thom 30 km [19 dặm] về phía bắc, cách Di sản thế giới Angkor 176 km [109 dặm] về phía đông và cách Phnom Penh 206 km [128 dặm] về phía bắc. Quần thể này được xây dựng dưới thời tiền Angkor bởi Vương quốc Chân Lạp [cuối thế kỷ thứ 6 đến 9] do vua Isanavarman I thành lập để là kinh đô của vương quốc, được biết đến như là Isanapura. Năm 2017, quần thể di tích này chính thức trở thành một Di sản thế giới của UNESCO.

Nhóm đền Prasat Sambor nằm tại phía Bắc quần thể Sambor Prei Kuk.

Nó nằm trên bờ đông của Tonle Sap, gần sông Steung Saen, phần trung tâm của Sambor Prei Kuk được chia thành ba nhóm chính. Mỗi nhóm được bố trí bao quanh bởi một bức tường gạch hình vuông. Các cấu trúc của khu vực khảo cổ được xây dựng ở những thời điểm khác nhau: nhóm phía nam và phía bắc được xây dựng dưới thời Isanavarman I [thế kỷ thứ 7], được coi là người sáng lập nên thành phố trong khi nhóm đền ở trung tâm được xây dựng sau này.

Quần thể đã bị hủy hoại, nằm giữa những cánh rừng nhiệt đới đã từng bị khai thác và còn sót lại nhiều bom mìn sau chiến tranh, các công trình ở đây đặc trưng thời tiền Angkor. Vật liệu chính để xây dựng là gạch nhưng đá sa thạch vẫn được sử dụng cho những cấu trúc nhất định. Quần thể bao gồm các ngôi đền, tháp bát giác, biểu tượng thần Shiva, đá Yoni, ao và hồ chứa,cùng các tác phẩm điêu khắc sư tử.

Quần thể đền Sambor Prei Kuk đang thu hút ngày càng nhiều khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan.

Công cuộc chinh phục Phù Nam của người Chân Lạp cũng như sự hợp nhất giữa hai nước Chân Lạp và Phù Nam đã tạo ra quốc gia Khmer và Bavavacman I có thể coi là người sáng lập. Tuy vậy, sự hợp nhất đó không có nghĩa là đã chấm dứt được ngay tình hình đối lập về thành phần chủng tộc nữa.

Từ đời Bavavacman I cho đến cuối đời vua Giayavacman II chính quyền quân chủ chuyên chế ở nước Chân Lạp ngày càng được củng cố dần, nhất là vùng Biển Hồ và vùng tam giác châu thổ sông Mê Kông. Trong lịch sử Campuchia, thời đại đó còn gọi là thời đại tiền Angkor, thời đại đã lại nhiều di tích về đền đài, tượng thần, văn bia khắc bằng chữ Sankris hay bằng chữ Khmer cổ, hợp thành cái mà người ta gọi là nền nghệ thuật tiền Angkor.

Nghệ thuật kiến trúc đền chùa ở Sambor Prei Kuk có phong cách khác với nền nghệ thuật kiến trúc của Ấn Độ tại Campuchia, đền chùa xây bằng gạch, cửa cuốn bằng đá, thường xây cách biệt nhau hoặc hợp thành từng cụm. Nghệ thuật tạc tượng cũng thế, mặc dù còn giữ lại một số nét của các loại hình Ấn Độ, nhưng đã mang phong cách đặc biệt, độc đáo của nền nghệ thuật tạc tượng Khmer cổ đã từng tạo nên những pho tượng đẹp như tượng thần Harihara và pho tượng nửa người ở Uma.

Khu đền đài Sambor Prei Kuk gắn bó trực tiếp với việc lan truyền và hòa hợp các yếu tố tôn giáo bên ngoài, đạo Hindu [Hinduism], Phật giáo với tôn giáo bản địa.

Đền hiện nay nằm ở vị trí từ thủ đô Phnom Penh ngược lên quốc lộ 6 lên thị xã Kompong Thom và sau đó ngược lên hướng đông bắc, đi trên con đường đất đỏ cực kỳ xấu dẫn vào rừng sâu. Khu đền này có 54 cụm tháp lớn nhỏ nằm rải rác trong khu rừng hoang rộng đến 30km2. Trước ngày 11-3-2003 – ngày chính phủ chính thức cho mở cửa khu đền – ít ai dám vào rừng một mình vì còn rất nhiều bom mìn và không có lối đi, rất dễ lạc lối. Ngay từ khi phát hiện khu đền ẩn mình trong rừng, người ta đã tìm ra nhiều bia ký được khắc từ thời Isanavarman I cho thấy đó là một kinh thành to lớn và tráng lệ.

Nhà sử học đời nhà Tùy – Trung Quốc ghi chép lại khung cảnh của Sambo Prey Kuk này xưa:

    Nhà vua sống trong cung điện giữa kinh đô đông đến hơn hai vạn hộ. Ở trung tâm kinh đô có một hoàng cung là nơi nhà vua thiết triều và tiếp kiến sứ thần… Cứ ba ngày một lần, nhà vua ra ngự ở hoàng cung, ngồi trên một cái sập bằng gỗ hương sơn son thếp vàng. Phía trên sập có treo một khung trần bằng ngà voi trang trí những bông hoa mạ vàng, bốn phía căng đủ các thứ gấm vóc, toàn bộ cái sập trông như một tòa lâu đài.

Bốn bề cố đô là rừng rậm, đó đây là những phế tích tường thành, hồ công chúa, vọng gác, đền thờ…, những hình bóng của một kinh đô ngàn năm trước hoàn toàn đổ nát tại các đền đài chính. Duy chỉ có 2 khu vực dành cho du khách tham quan còn nguyên vẹn là Đền sư tử Yeai Pourn và nhóm Đền Trapeang Ropeak.

Chùa Bạc Wat Preah Morakat

Wat Preah Morakat, còn được gọi là Chùa Bạc hay Chùa Phật ngọc lục bảo, là một ngôi chùa nổi tiếng của Campuchia. Sở dĩ được gọi là Chùa Bạc vì ngôi chùa có đến 5329 miếng bạc lát trên nền nhà, mỗi miếng bạc đều làm thủ công và có trọng lượng 1,125 g. Ngôi chùa có chức năng văn hoá và lưu giữ bảo vật tôn giáo hơn là chức năng thờ cúng, chứa đựng hơn 1650 đồ vật có giá trị. Bức tượng Phật ngồi trên ngọn tháp trung tâm ngôi đền là bức tượng ngọc lục bảo, có những thông tin khác nhau bức tượng được làm bằng ngọc lục bảo hay pha lê. Đứng trước tượng lục bảo là tượng Phật Di-lặc [đức phật tương lai] đúc bằng 90 kg vàng ròng và được gắn 2086 viên kim cương, trong đó có viên kim cương 25 carat trên vương miện và viên kim cương 20 carat gắn ở ngực.

Chùa Bạc nhìn từ trước – đây là chính điện.

Ngoài ra còn có bức tượng Phật xá lị ngồi trong một tháp nhỏ bằng vàng và bạc, các bảo vật của Vương hậu Kossomak Nearirith, bảo vật đóng góp của các dòng họ quý tộc và vương thất.

Các công trình chính trong Chùa Bạc:

  • Tranh tường sử thi Ramayana [Reamker]
  • Dhammasala
  • Keong Preah Bat
  • Thư viện
  • Đồi Mondop
  • Bức tượng vua Norodom
  • Lăng mộ vua Ang Duong
  • Lăng mộ vua Norodom
  • Lăng mộ vua Suramarit và vương hậu Kossomak
  • Lăng mộ công chúa Kantha Bopha
  • Tháp chuông
Lăng mộ công chúa Kantha Bopha.

Chùa Bạc nằm trong quần thể của Vương cung Campuchia nằm về phía bên trái cung điện theo phía cổng dành riêng cho du khách. Ngôi chùa to lớn và đẹp đẽ cả về nghệ thuật lẫn kiến trúc, nó mang dáng dấp với lối kiến trúc tiêu biểu của kiến trúc chùa tháp Campuchia.

Đền Banteay Srei

Banteay Srei [hay Banteay Srey] là một ngôi đền Campuchia được xây để thờ thần Hindu là Shiva. Ngôi đền “Banteay Srei” [đền của phụ nữ] vào thế kỷ thứ 10 hay còn gọi là “Tribhuvanamahesvara” này tọa lạc tại khu vực Angkor ở Campuchia, tại tọa độ 13,59 độ vĩ bắc, 103,96667 độ kinh đông, ngôi đền này nằm gần đồi Phnom Dei, cách 25 km [15 dặm] về phía đông bắc của nhóm các đền đã từng thuộc về các kinh đô cổ đại của Yasodharapura và Angkor Thom. Banteay Srei được xây chủ yếu bằng đá sa thạch đỏ, một chất pha màu được thêm vào những bức điêu khắc trang trí tỉ mỉ trên tường mà ngày nay vẫn còn được nhìn thấy. Những công trình này là một vật thu nhỏ khi lấy các công trình Angkor làm tiêu chuẩn. Những yếu tố này giúp cho ngôi đền nổi tiếng với du khách, và được nhắc đến với các tên “viên ngọc quý”, hoặc “trang sức của nghệ thuật Khmer”.

Kiến trúc mang đậm chất kiến trúc của nghệ thuật Balamon Ấn Độ.

Ngôi đền chính thức bị quên lãng sau nhiều thập kỷ liên tiếp cùng chung số phận với hơn 45 cụm di tích khác trong quần thể Angkor. Sau đó ngôi đền chính thức được phát hiện vào năm 1914 bởi các nhà khảo cổ người Pháp.

Ngôi đền là bức tranh tuyệt tác về nghệ thuật điêu khắc trên đá ong và sa thạch đỏ.Bản thân ngôi đền được xem là tuyệt đỉnh của nghệ thuật trên đá với những bức phù điêu hoa văn một cách tinh tế và khéo léo từng chi tiết nhỏ. Ngôi đền ban đầu thờ thần Shiva, trong khi đó ngôi đền phía Bắc lại thờ thần Vishnu.

Đầu tiên ngôi đền này có tên là Tribhuvanamahesvara – nơi đây được xem là trung tâm hình ảnh của tôn giáo. Bao bọc xung quanh ngôi đền có rất nhiều tháp mà người ta gọi là Isvarapura.

Đền Banteay Srey như một tuyệt tác về nghệ thuật điêu khắc trên đá ong và sa thạch đỏ.

Về sau, tên gọi của ngôi đền mới được sửa lại là Banteay Srei. Tuy nhiên, so với việc xây dựng từ ban đầu, nó được chính thức xây dựng và mở rộng lại vào thế kỷ thứ 8, mãi đến những năm sau đó, các họa tiết trong đền mới được điêu khắc vào thế kỷ thứ 12 và ngôi đền chính thức hoàn thành trọn vẹn vào thế kỷ 14.

Đền Banteay Srei là tuyệt tác của nghệ thuật tôn giáo Bà-la-môn Ấn Độ. Đền gồm ba lớp, qua cầu đá đi vào cổng đền là vòng ngoài, đến cầu đá thứ hai qua hào nước [nay không còn] là cổng vào vòng giữa và cuối cùng là vòng trong gồm các đền thờ và hai toà kiến trúc gọi là “thư viện”. Trước ảnh [mandapa] nối với trung tâm đền là các tượng người bảo vệ đền. Các tượng này thật ra chỉ là tượng sao bản, tượng cổ nguyên thủy hiện nay được giữ bảo quản ở Viện bảo tàng Quốc gia Phnom Penh. Trên mi cửa [lintel] ở cửa hành lang điện sảnh là những điêu khắc tỉ mỉ. Có nhiều hoa văn trên đá như hoa lá, các con Phật sư hay những con sư tử và các vị thần linh được điêu khắc một cách tinh xảo đến từng chi tiết nhỏ nhất. Trên sân nhỏ giữa đền ở vòng trong có ba đền thờ: kiến trúc đền thờ phía Bắc thờ thần Vishnu, đền trung tâm và đền phía Nam thờ thần Shiva.

Tượng đài Độc lập Phnôm Pênh

Tượng đài Độc lập là đài kỷ niệm ở thủ đô Phnôm Pênh. Công trình khởi công năm 1958 và khánh thành ngày 9 tháng 11 năm 1962, kỷ niệm 9 năm độc lập của Campuchia từ tay người Pháp. Đài độc lập được xem là điểm tham quan thu hút đông du khách khi họ đến Phnom Penh.

Công trình này là tác phẩm của kiến trúc sư Campuchia Vann Molyvann, sử dụng hầu như tất cả các mô típ truyền thống trong ngành kiến trúc Khmer cổ truyền. Tượng đài có hình dạng stupa [phù đồ] mô phỏng theo Angkor Wat và một số các di tích lịch sử khác của Campuchia. Kết quả là một ngọn tháp bề thế nhưng thon cao, trên chỏm là phần mái thu gọn dần tựa búp hóa sen, tiêu biểu cho kiến trúc phổ biến của nước Chùa Tháp. Kiến trúc sư Vann Molyvann chịu ảnh hưởng nặng phong cách hiện đại nên hình thể của đài kỷ niệm cũng mang ít nhiều dấu ấn đó.

Có thể đứng từ mọi phía để ngắm quang cảnh của quảng trường Đài độc lập.

Màu sắc của đài độc lập sử dụng màu tím là chính. Phía dưới Đài Độc lập là bồn phun nước, thắp ánh đèn sáng rực rỡ đủ màu vào ban đêm. Nhiều người dân địa phương cũng như du khách từ xa đến thường tới đây xem như là cách giải trí nhẹ nhàng.

Đài kỷ niệm Độc lập nằm tại quảng trường lớn, ở giao lộ hai con đường Norodom và Sihanouk giữa thủ đô. Khách tới xem không phải trả tiền, tuy nhiên khi đài kỷ niệm Độc lập được dùng làm lễ đài cho trọng lễ thì du khách sẽ bị cấm không vào được.

Trong những đại lễ quốc gia, đặc biệt là quốc khánh và ngày kỷ niệm ban hành hiến pháp Campuchia – đây là tâm điểm của các sinh hoạt lễ nghi. Vua Campuchia vào những ngày đại lễ sẽ ngự giá đến đây đọc diễn văn và tiến hành các nghi lễ quan trọng khác.

Đài độc lập còn được sử dụng như đài tưởng niệm những tử sĩ và thường dân Campuchia đã chết trong chiến cuộc. Đây là một công trình kiến trúc đẹp của thành phố Phnom Penh. Du khách có thể đi một vòng mà vẫn thấy vẻ đẹp của ngọn tháp này mọi phía.

Chùa Wat Phnom

Wat Phnom là một ngôi chùa lịch sử và là một trong những chùa quan trọng nhất ở Phnôm Pênh. Đây là ngôi chùa linh thiêng thu hút khách hành hương từ mọi miền đất nước và là điểm tham quan không thể bỏ qua của du khách khi du lịch đến đất nước Campuchia này.

Chùa được xây năm 1373. Nằm ở độ cao 27 m so với xung quanh, nó là điểm cao nhất trong thành phố này và cũng là công trình tôn giáo cao nhất. Chùa được một quả phụ giàu có là Daun Penh xây trên một ngọn đồi nhân tạo, sau khi một trận lụt lớn đã cuốn trôi các bức tượng Phật tới đây.

Wat Phnom là ngôi chùa linh thiêng bậc nhất tại Campuchia.

Truyền thuyết kể lại rằng sự ra đời của Wat Phnom gắn chặt với sự khởi đầu của Phnôm Pênh. Người ta kể rằng năm 1372 bà Penh [Yea Penh] vớt được một cây gỗ trôi dạt trên sông. Bên trong cây gỗ là 4 bức tượng Phật. Bà đã cho đắp một ngọn đồi [phnom có nghĩa là đồi] và một ngôi chùa nhỏ [wat] ở khu vực mà ngày nay gọi là Wat Phnom. Sau này, khu vực xung quanh được gọi theo ngọn đồi [Phnom] và người tạo ra nó [Penh], vì thế mà có Phnom Penh. Ngôi chùa hiện đang tồn tại được xây dựng lại lần cuối vào năm 1926. Đã có nhiều hạng mục thêm vào trong các thế kỷ qua. Tháp chứa hài cốt lớn nhất chứa tro của vua Ponhea Yat [1421?-1462], người đã di chuyển kinh đô của đế chế Khmer từ Angkor về Phom Penh. Khu vực chùa này là trung tâm lễ hội của thành phố trong Năm mới Campuchia và Pchum Benh.

Chùa có tất cả hai hướng để tham quan, du khách tham quan ngôi chùa sẽ đi một đường và xuống một đường. Đường lên chùa không cao, phía con đường đi có bức tượng của rắn thần Naga và hai con linh sư – những con vật quen thuộc trong tín ngưỡng của người Campuchia và là những linh vật được thấy hầu hết trong đền quần thể đền Angkor. Phần ngôi chùa phía trên đồi tôn thờ giống như hầu hết các ngôi chùa ở Campuchia, phía sau, Bà Pênh được thờ phía sau chùa rất linh thiêng mà du khách thường đến cúng bái, phía cạnh tượng bà Pênh là tượng ông thần tài- một vị thần theo tín ngưỡng của người Hoa được phối thờ.

Hằng năm, chùa thu hút một lượng lớn khách hành hương từ mọi miền đất nước và là điểm tham quan không thể bỏ qua của du khách khi đến với du lịch Campuchia.

Phần tháp màu trắng được xây dựng lại phía sau tượng bà Pênh được sơn màu trắng dùng để chứa hài cốt của vua Ponhea Yat- hình ảnh đặc biệt mà từ xa có thể thấy ngôi tháp.

Phần đi xuống con đường là quảng trường nhỏ có bức tượng của vua Ponhea Yat. Phía dưới là một đồng hồ cỏ mà người Hoa đã dành tặng cho chùa. Hiện nay đồng hồ cỏ này vẫn hoạt động tốt. Điều quy định khi tham quan chùa là không mặc quần áo ngắn tay, khi cúng bái bà Pênh tuyệt đối không cầu tình duyên. Xung quanh chùa có rất nhiều khỉ, chúng được nuôi thả tự do và tuyệt đối khi gặp chúng không được chọc phá.

Blog’s Nguyễn Kiều Việt Như, tổng hợp

Video liên quan

Chủ Đề