Có tất cả bao nhiêu kỳ thi nho học

Dù có mấy ngàn năm văn hiến, nhưng tới thời Lý, nước ta mới có khoa cử. Năm 1075, khoa thi Minh kinh bác học và Nho học tam trường đầu tiên diễn ra dưới thời Lý Nhân Tông. Sử sách đều ghi Lê Văn Thịnh người làng Đông Cứu, Gia Định [nay thuộc xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh] là người đỗ đầu. Từ một người ở nơi thôn dã, không phải “Thế gia vọng tộc”, Lê Văn Thịnh bỗng chốc “đổi đời” làm thầy dạy vua, Thị lang Bộ Binh [tương đương Thứ trưởng Bộ Quốc phòng bây giờ] và lập công trong cuộc đàm phán năm 1084 mà trở thành Thái sư năm 1086. Chỉ với 11 năm ngắn ngủi, Lê Văn Thịnh từ một nho sinh đã được làm quan đầu triều trở thành ước mơ lớn cho nhiều kẻ sĩ.

Các kỳ thi đình đều diễn ra ở kinh đô. Kỳ thi đầu tiên ở Thăng Long [Hà Nội] nhưng kỳ thi cuối cùng diễn ra ở Huế, năm 1919 dưới triều vua Khải Định do nhà Nguyễn dời kinh đô về đây. Trong các triều đại từ Lý, Trần, Hồ, Lê, Mạc, Nguyễn thì triều Lê là thịnh đạt nhất. Trong triều Lê thì triều vua Lê Thánh Tông là hơn cả. Thế nên, dù là sử quan nhà Nguyễn, nhưng sử gia Phan Huy Chú trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí” cũng phải bàn: “Khoa cử các đời, thịnh nhất là đời Hồng Đức. Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau không thể theo kịp”. Còn Bảng nhãn Lê Quý Đôn, nhà bác học trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục thống kê cụ thể về khoa cử triều vua Lê Thánh Tông: “Tính từ năm 1442 đến năm 1526 gồm 26 khoa, lấy 989 người đỗ tiến sĩ, mà có 63 người dự vào tam khôi, thế là thịnh đạt lắm”.

Với quan điểm “dĩ văn thủ sĩ” [dùng khoa bảng chọn kẻ sĩ làm quan] nên sĩ tử toàn quốc dốc lòng sôi kinh nấu sử để đổi thay cuộc đời. Thứ hạng “sĩ, nông, công, thương, binh” cũng vì thế hình thành giai tầng và đẳng cấp trong xã hội phong kiến. Nho sinh đỗ đạt được triều đình bổ dụng làm quan. Mà một người làm quan là cả họ được nhờ, cả tổng danh thơm. Vì thế, câu văn của Thân Nhân Trung [đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân] trên bia đề danh tiến sĩ năm 1442 thực sự khái quát được vị thế của con đường khoa cử Nho học: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết...”.

Khu di tích Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội đã trở thành Di tích quốc gia đặc biệt. Ngoài thờ Khổng Tử, Chu Công và tứ phối, Văn Miếu còn thờ Chu Văn An, nhà khoa bảng, vị thầy dạy vua thời Trần. Trước dịp kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, nơi đây thờ thêm 3 vị vua có công lao đánh dấu những sự kiện trọng đại của khoa cử. Vua Lý Thánh Tông – Người dựng Văn Miếu năm 1070; Vua Lý Nhân Tông – Người mở kỳ thi đầu tiên năm 1075; Vua Lê Thánh Tông – Người cho dựng bia tiến sĩ đầu tiên ở Văn Miếu…

Trước khi khoa cử Nho học được tổ chức, đội ngũ quan lại được tuyển dụng bổ nhiệm chủ yếu qua con đường “thế tập” cha truyền con nối, qua tầng lớp tăng lữ, hoàng thân quốc thích. Khi khoa cử Nho học được tổ chức, cơ hội đỗ đạt, làm quan, cống hiến cho đất nước được mở rộng cho nhiều người, trừ một số trường hợp không được dự thi. Thế nhưng, mô hình khoa cử Nho học trở nên lung lay và dần đi đến chỗ chấm dứt sứ mệnh lịch sử khi người Pháp sang xâm chiếm thuộc địa. Những nho sinh chuyển sang học tiếng Pháp rồi theo đạo Gia tô có những kiến thức về khoa học, kỹ thuật và xã hội mới mẻ vượt trội so với nhà nho đương thời suốt ngày ra rả “tứ thư ngũ kinh”. Với kiến thức phương Tây, Nguyễn Trường Tộ trở thành người đi trước thời đại. Ông kiến nghị triều đình nhà Nguyễn nhiều chính sách và cải cách mới mẻ nhưng tiếc thay không được dùng. Từ khi lục tỉnh Nam Kỳ rơi vào tay Pháp [năm 1867] và nhất là đến khi Pháp hoàn toàn bảo hộ Việt Nam [năm 1884] thì mô hình khoa cử Nho học tuyển chọn hiền tài bổ nhiệm làm quan bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhiều kẻ sĩ bỏ chữ Nho học chữ Pháp để làm quan.

100 năm nhìn lại khoa cử Nho học Việt Nam, điều đọng lại là tư tưởng trọng dụng nhân tài vẫn được thế hệ sau này tiếp nối. Có khác chăng là hình thức tuyển chọn thời nay phong phú và đa dạng hơn, cơ hội cũng mở rộng ra nhiều người hơn. Và tất nhiên, hình thức vinh danh nhân tài lại càng phong phú, tuy không dùng bia đá để vinh danh.

Trống điểm canh tư [chừng 1g sáng] thí sinh phải có mặt ở trường thi để nghe gọi tên, đến khoảng canh năm tám khắc [khoảng 5g sáng] thì thí sinh phải vào hết trong trường. Thí sinh làm bài cho đến giờ Thân [3-5 giờ chiều] thì bắt đầu nộp bài, hạn cuối là hết canh một [tức 19g]. Vì vậy, thí sinh vào trường phải chuẩn bị đầy đủ lều, chõng, chiếu, tráp đựng nghiên, bút, giấy, mực, dao kéo... và thức ăn dùng trong một ngày.

Quan trọng nhất là chuẩn bị quyển thi [tức giấy làm bài thi đóng thành quyển], phải giữ gìn hết sức sạch sẽ. Quyển thi là do thí sinh đem nộp trước cho dinh đốc học để kiểm tra, đóng dấu. Khi quan trường gọi đúng tên, thí sinh phải “dạ” thật to rồi vào cổng trường thi để nhận lại quyển thi. Vào trường thi, thí sinh tìm chỗ cắm lều, đặt chõng, đến khi sáng rõ mặt thì xong để chuẩn bị làm bài thi.

Tứ trường và thiên kinh vạn quyển

Theo Khâm Định Đại Nam Hội điển sự lệ, thi hương có khi thi ba vòng [người xưa gọi tam trường] có khi thi bốn vòng [tứ trường]. Vòng một thi kinh nghĩa [tức các sách tứ thư, ngũ kinh của Nho giáo], vòng hai thi chiếu biểu [tức soạn thảo các văn bản hành chính như chiếu, biểu, sớ, dụ...], vòng ba thi thơ phú [sáng tác theo chủ đề của đề thi], vòng bốn thi văn sách [tương tự như thi tự luận].

Vòng thi kinh nghĩa tương đối dễ với thí sinh, chỉ cần thuộc lòng tứ thư, ngũ kinh và trình bày cho đúng ý của người xưa. Vòng thi chiếu biểu phải thuộc hàng trăm bài loại này rồi chắt lọc tinh hoa để viết thành bài thi. Dễ làm và khó đỗ nhất là kỳ thi thơ phú. Dễ vì suốt cả ngày chỉ cần sáng tác một bài thơ tối đa 16 câu và một bài phú tám câu, nhưng cái khó là phải hay, vì cái hay nó vô cùng.

Vòng bốn thi văn sách thì tự do trình bày theo kiến giải riêng của mình, tương tự như thi tự luận ngày nay. Muốn qua được vòng thi này, không những phải làu thông kinh sử mà còn phải biết vận dụng sở học của mình để trình bày những kiến giải mới lạ. Đề thi thường hỏi đủ mọi lĩnh vực: thiên văn, địa lý, bói toán, y học...; đặc biệt là những câu hỏi về thời sự, đòi hỏi thí sinh phải có những kiến giải độc đáo và đưa ra giải pháp khả thi. Thi tứ trường nhưng phải học thiên kinh vạn quyển là thế!

Mang tài liệu vào trường thi: gông cổ, đánh 100 roi

Không được mang tài liệu vào trường thi; không nói chuyện ồn ào, đi lại lộn xộn; không được quên đóng dấu “nhật trung” [là dấu giáp lai các trang bài thi, dấu xác định bài thi được làm tại trường thi...]; cấm ngồi không đúng chỗ, tự ý vứt bỏ hoặc sửa chữa bảng tên; cấm kê khai gian lận tên tuổi; cấm nộp bài trễ hạn. Các quy định đó xem ra cũng không khác gì bây giờ, nhưng hình phạt cho người vi phạm thì rất nghiêm khắc. Nếu bị phát hiện mang tài liệu vào phòng thi sẽ bị đóng gông một tháng, sau đó bị đánh 100 roi. Nói chuyện ồn ào thì không những thí sinh bị trị tội mà còn truy tội cả các vị quan đốc học, giáo thụ và huấn đạo ở địa phương.

Trong bài thi lại có những quy định khác, rắc rối và ngặt nghèo hơn, chủ yếu là những lỗi về hình thức mà thí sinh phải tránh. Đầu tiên là lỗi khiếm tị [không biết tránh chữ húy]. Bài thi của thí sinh phải tránh viết những chữ húy kỵ của triều đình, đó là tên của tất cả các đời vua, hoàng hậu, kể cả ông bà tổ tiên vua; rồi thì tên lăng, miếu, cung, điện, làng quê của vua...

Sau lỗi khiếm tị là lỗi khiếm trang và khiếm đài. Khiếm trang có nghĩa là thiếu phần tao nhã, do dùng những từ thô tục về nghĩa cũng như về âm, thiếu tôn kính với các từ tôn nghiêm. Đang hành văn mà gặp những từ tôn kính như thiên, địa, đế, hậu... thì phải tự động sang hàng và đài [nâng cao lên trong dòng chữ]. Nếu không là mắc lỗi khiếm đài.

Chưa hết, bài thi phải viết loại chữ chân phương, thiếu một nét, một chấm xem như mắc lỗi. Quyển thi nếu bị ố bẩn, tì vết, xem như làm dấu cũng bị đánh rớt. Lệ còn quy định mỗi quyển thi không được đồ [xóa bỏ], di [sót], câu [móc], cải [sửa] quá 10 chữ. Khi làm xong bài, cuối quyển thi phải ghi rõ số chữ đã đồ, di, câu, cải. Nếu đồ, di, câu, cải vượt quá 10 chữ, hoặc sai sót, ố bẩn, tì vết không thể khắc phục thì đem lên quan trường xin đổi quyển thi khác hợp lệ. Phạm vào lỗi gì đều được niêm yết rõ lên bảng con ở mỗi khu vực cho thí sinh biết vì sao mà hỏng thi.

Những thí sinh chỉ đỗ được ba trường thi hương thì được học vị tú tài. Những thí sinh vượt qua được cả bốn trường thì được học vị cử nhân, được ban cấp áo mão, ban yến [đãi tiệc], rồi vinh quy bái tổ.

Tiếp tục cuộc đua tiến sĩ

Tân cử nhân về quê tiếp tục đèn sách đợi sang năm vào kinh đô dự kỳ thi hội, cùng với những cử nhân của các khoa trước đó, những thí sinh đã vượt qua một kỳ khảo hạch đặc biệt do triều đình, và một số ít quan lại muốn có học vị cao hơn. Cách thức làm bài và trường quy thi hội không khác mấy với thi hương, chỉ khác là phạm quy thì bị tội nặng hơn.

Thi hội không có truyền lô [xướng danh] nhưng lễ yết bảng [công bố kết quả] rất long trọng. Bảng chính ghi tên những người đạt hạng trúng cách, bảng thứ ghi tên người hạng thứ trúng cách.

Chỉ những người trúng cách mới được tiếp tục tham gia thi đình, tổ chức trong cung đình, do đích thân nhà vua ra đề và là người chấm thi cuối cùng. Quyển thi và quyển nháp đều do bộ Lễ cấp, có rọc phách hẳn hoi. Vua chấm thi vẫn không biết bài đó của ai. Thi đình thực chất là cuộc phúc tra cuối cùng nhằm thẩm định và xếp hạng các tân tiến sĩ.

Sau khi vua chấm bài thì học vị của các sĩ tử được quyết định và bảng vàng ghi danh là vinh hiển tột cùng. Các tiến sĩ có tên niêm yết trên bảng vàng sẽ được ban yến tiệc trong cung, được bệ kiến hoàng thượng, được thăm hoa ở vườn ngự uyển, được cưỡi ngựa dạo khắp kinh thành, rồi vinh quy bái tổ. Phần thưởng cao quý nhất cho tiến sĩ là được khắc tên vào bia đá đặt ở Văn Miếu để lưu danh mãi mãi.

Hệ thống học vị dưới triều Nguyễn

1. Thi hương đỗ tam trường [ba vòng đầu], đạt học vị: tú tài; đỗ tứ trường: hương cống [về sau gọi là cử nhân]; đỗ thủ khoa: giải nguyên.

2. Thi hội: đỗ bảng chính gọi là trúng cách được tiếp tục dự thi đình; đỗ bảng thứ là thứ trúng cách, được học vị: phó bảng; đỗ thủ khoa: hội nguyên.

3. Thi đình: đỗ thi đình đạt học vị chung là tiến sĩ; đỗ thủ khoa: đình nguyên. Trong đó, đỗ từ 8-10 điểm được xếp bậc đệ nhất giáp. 10 điểm được lấy đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh, thường gọi là trạng nguyên. 9 điểm: đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh, thường gọi là bảng nhãn. 8 điểm: đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, thường gọi là thám hoa.

--------

21 lần đi thi, đến năm 82 tuổi mới đậu cử nhân. Đó là thí sinh đặc biệt nhất trong lịch sử thi cử Việt Nam.

Chủ Đề