Cách tính tốc độ tăng trưởng kinh tế cấp xã

Về vấn đề này, Cục Phát triển đô thị, Bộ Xây dựng hướng dẫn như sau:

Tổng sản phẩm trong nước [GDP] là giá trị mới của hàng hóa và dịch vụ được tạo ra của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Tổng sản phẩm trong nước được tính theo giá thực tế và giá so sánh.

Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân cho một giai đoạn được tính theo công thức:

  

Trong đó:

dGDP - tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn n - 1 năm.

GDPn - là tổng sản phẩm trong nước năm n.

GDP0 - là tổng sản phẩm trong nước năm gốc.

n - 1   - là giai đoạn tính toán.

Ví dụ, tốc độ tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2008 - 2010 [trong đó GDP năm 2008 là 85 tỷ USD; GDP năm 2010 là 100 tỷ USD] tính như sau:

Do vậy mức tăng trưởng kinh tế cho một giai đoạn [3 năm] của thị trấn có thể căn cứ số liệu của bộ chỉ tiêu thống kê cấp tỉnh, huyện, xã để xác định Tổng giá trị sản xuất trên địa bàn nhằm tính tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình 3 năm trên địa bàn thị trấn.

Về chỉ tiêu Thu nhập bình quân đầu người so với cả nước, Cục Phát triển đô thị cho biết, chỉ tiêu này thể hiện sự so sánh giữa Thu nhập bình quân đầu người của thị trấn so với Thu nhập bình quân đầu người trung bình của cả nước theo số liệu tại năm trước liền kề năm lập đề án phân loại đô thị.

Cổng TTĐT Chính phủ trân trọng cảm ơn Cục Phát triển đô thị, Bộ Xây dựng đã có thông tin hướng dẫn công dân qua Cổng TTĐT Chính phủ.

Ban Bạn đọc


Chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước [GDP] được dùng để phân tích kinh tế và hoạch định chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, mà ít có ý nghĩa đối với cấp tỉnh, huyện, xã. Thế nhưng, thực tế hiện nay cho thấy, có sự chênh lệch giữa tốc độ tăng GDP của quốc gia chỉ khoảng 5-6%, trong khi địa phương nào tốc độ tăng GDP cũng từ 8% trở lên, thậm chí 14%.

Chênh lệch khá lớn giữa GDP cả nước và địa phương

Ngày 25-12-1992, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 183/TTg về việc chính thức áp dụng Hệ thống các tài khoản Quốc gia [System of National Accounts-SNA]. Điều 1 của Quyết định nêu rõ "Bắt đầu từ năm 1993, áp dụng hệ thống tài khoản quốc gia trên phạm vi cả nước, thay cho hệ thống bảng cân đối kinh tế quốc dân và các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp tương ứng". Theo đó, chỉ tiêu tổng sản phẩm trong nước [GDP] được tính toán thay cho chỉ tiêu "Thu nhập quốc dân". Quyết định trên đã chỉ rõ hệ thống tài khoản quốc gia nói chung và chỉ tiêu GDP nói riêng chỉ áp dụng cho phạm vi cả nước.

Chỉ tiêu GDP là một chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, ngay tên gọi cũng cho thấy đây là một chỉ tiêu ở tầm quốc gia, và phương pháp luận chỉ phù hợp tính cho toàn bộ nền kinh tế. Trong cuốn SNA chính thức xuất bản bởi LHQ không đề cập đến tính GDP cấp tỉnh, vì thế phần lớn các nước chỉ tính GDP cho phạm vi cả nước, chỉ có một số nước tính cho phạm vi cấp tỉnh hoặc vùng như Trung Quốc, In-đô-nê-xi-a, Thái-lan, Ca-na-đa,... Trong SNA thì nguyên tắc thường trú và không thường trú là một nguyên tắc quan trọng để xác định phạm vi tính toán chỉ tiêu GDP. Khái niệm thường trú không dựa trên cơ sở quốc tịch hay tiêu chuẩn pháp lý của quốc gia mà dựa vào trung tâm lợi ích kinh tế và mức độ thời gian hoạt động trên lãnh thổ quốc gia đó. Về ý nghĩa, chỉ tiêu GDP được dùng để phân tích kinh tế và hoạch định chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, mà ít có ý nghĩa đối với cấp tỉnh, huyện, xã.

Ở Việt Nam, để đáp ứng nhu cầu thông tin phục vụ sự lãnh đạo, điều hành của T.Ư, của Đảng bộ và chính quyền cấp tỉnh, Tổng cục Thống kê đã chỉ đạo tập trung, thống nhất các Cục Thống kê tính tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư [GRDP]. Về khái niệm, nội dung, nguồn số liệu và phương pháp tính ở cả T.Ư và địa phương đều thống nhất theo quy định của Hệ thống tài khoản quốc gia. Tuy vậy, sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta rất nhanh trong thập kỷ qua và các doanh nghiệp cũng được hình thành và phát triển mạnh mẽ [nhất là từ khi có Luật Doanh nghiệp]. Các doanh nghiệp hoạt động năng động và luôn luôn có xu hướng mở rộng sản xuất. Nhiều doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tại một địa phương nhưng lại hoạt động ở nhiều địa phương khác. Điều đó dẫn đến trường hợp các tỉnh, thành phố tính trùng. Thực tế này cùng với những khó khăn trong việc thu thập thông tin của các đơn vị hạch toán toàn ngành, thu thập thông tin về thuế nhập khẩu chia theo tỉnh, thành phố... không cho phép tính GDP của tỉnh, thành phố một cách chính xác [hầu hết các nước tổ chức tính GDP cấp tỉnh, thành phố đều xảy ra tình trạng chênh lệch số liệu ở cấp quốc gia và cấp tỉnh, thành phố].

Thay thế chỉ tiêu "GDP" cấp huyện, xã

Do chưa hiểu rõ bản chất và phạm vi tính toán của chỉ tiêu GDP, cho nên nhiều cấp huyện, cấp xã cũng xuất hiện chỉ tiêu này trong các Nghị quyết Đại hội Đảng bộ cấp huyện, xã. Theo đó, lãnh đạo cấp huyện, xã hằng năm, thậm chí quý và 6 tháng đã yêu cầu bộ phận chức năng tính toán chỉ tiêu GDP. Trong khi nguồn thông tin đầu vào theo đơn vị thường trú và các công cụ [chi phí trung gian, giá và chỉ số giá...] của cấp tỉnh trở xuống không thể đáp ứng được việc tính toán chỉ tiêu GDP. Có ý nghĩa gì khi tốc độ tăng GDP của quốc gia chỉ khoảng 5-6%, trong khi địa phương nào tốc độ tăng GDP cũng từ 8% trở lên, thậm chí 14%. Vậy chỉ tiêu nào để thay cho chỉ tiêu "GDP" cấp huyện, xã khi đánh giá về tình hình phát triển kinh tế của huyện, xã? Đó là tổng giá trị sản xuất của một số ngành sản xuất chủ yếu, thường thì bao gồm các ngành sản xuất ra sản phẩm vật chất [có thể cả thương mại, vận tải]; sản lượng sản phẩm chủ yếu sản xuất ra của ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản, công nghiệp...

Từ khi áp dụng SNA, nhiều nhà hoạch định chính sách coi GDP là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá tăng trưởng của quốc gia, cấp tỉnh trong khi những chỉ tiêu khác quan trọng và thực chất hơn nhiều thường không được đề cập tới hoặc đề cập một cách chưa thỏa đáng.

Ở Việt Nam, từ khi có Quyết định số 183/TTg năm 1992 của Thủ tướng Chính phủ về áp dụng SNA thì hệ thống tổ chức thông tin phục vụ việc tính toán GDP còn nhiều ngành, lĩnh vực chưa đáp ứng cho việc biên soạn chỉ tiêu GDP. Vì vậy, về lâu dài Tổng cục Thống kê cần cải tiến lại cách thức tổ chức biên soạn chỉ tiêu GDP cho phù hợp với phương pháp luận của Thống kê Liên hợp quốc và thực tế nguồn thông tin trong nước. Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư đang chỉ đạo Tổng cục Thống kê xây dựng Đề án chuyển đổi quy trình biên soạn số liệu GRDP của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để trình Thủ tướng Chính phủ ký quyết định ban hành. Theo đó, từ năm 2016, Tổng cục Thống kê sẽ chủ trì và trực tiếp cùng phối hợp với các Cục Thống kê tính toán số liệu GRDP và thông báo cho các địa phương thống nhất sử dụng.

HÀ QUANG TUYẾN Vụ trưởng Hệ thống Tài khoản quốc g

Tin tức / Thông tin Kinh tế – Xã hội

A+ | A | A-

Nói thêm về cách tính GDP

Người đăng: Administrator Account Ngày đăng: 9:46 | 10/11 Lượt xem: 78800

Trên diễn đàn Quốc hội tuần qua, các đại biểu Quốc hội thắc mắc về mức tăng trưởng GDP trong quí 3-2017 mà Tổng cục Thống kê công bố, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã phát biểu giải đáp phần nào thắc mắc này. Tuy nhiên, dưới góc độ người quan sát, chuyên gia kinh tế Bùi Trinh cho rằng vẫn còn nhiều vấn đề cần thảo luận xung quanh cách tính GDP hiện nay, TBKTSG xin giới thiệu bạn đọc. Nói thêm về cách tính GDP

Số liệu GDP chín tháng theo ngành cho thấy giảm phát của giá trị gia tăng [VA deflator]
của ngành giáo dục cao hơn giảm phát GDP [GDP deflator] gấp rưỡi và của ngành y tế
cao hơn hơn gấp đôi. Ảnh: THÀNH HOA

Tại phiên họp Quốc hội ngày 31-10-2017, trước thắc mắc của đại biểu Quốc hội rằng số liệu tăng trưởng GDP không hợp lý, tăng trưởng giữa các quí lên xuống đột ngột không theo logic thông thường, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư [KH&ĐT] đã đưa ra lời giải thích về chu kỳ tăng trưởng GDP trong năm. Bộ trưởng khẳng định tốc độ tăng trưởng GDP có sự khác biệt, tăng giảm trong giữa các quí trong một năm. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng GDP là một chỉ tiêu về kết quả và chịu sự tác động của yếu tố chu kỳ sản xuất, chu kỳ tăng trưởng và yếu tố mùa vụ của các hoạt động kinh tế.

Theo tôi, cách giải thích này là khó hiểu và không hoàn toàn chính xác, gây nên hàng loạt câu hỏi muốn Bộ trưởng giải thích rõ hơn.

Những thắc mắc

Thứ nhất, tính toán tốc độ tăng trưởng GDP quí phải được tính theo giá so sánh bằng cách lấy GDP quí theo giá so sánh của năm sau so với năm trước, hiện nay Tổng cục Thống kê [TCTK] lấy năm cơ bản là năm 2010. Câu hỏi đặt ra là TCTK sử dụng chỉ số giá nào để giảm phát [deflator] GDP quí từ giá thực tế sang giá so sánh và phương pháp giảm phát là gì? Số liệu trong trang web của TCTK cho thấy tăng trưởng giá trị sản xuất và tăng trưởng giá trị gia tăng của các ngành sản xuất vật chất hầu như bằng nhau, có nghĩa là sự thay đổi về giá của sản phẩm đầu ra và chi phí đầu vào là như nhau. Trên thực tế, điều này dường như không bao giờ xảy ra. Cũng số liệu ngay trong trang web của TCTK, nhưng ở phần chỉ số giá, cho thấy chỉ số giá đầu vào và đầu ra là hoàn toàn khác nhau.

Hơn nữa, TCTK lấy chỉ số giá nào? Giá bình quân năm hay chỉ số giá bình quân quí để chuyển GDP về giá năm gốc [2010].

Thứ hai, tăng trưởng chính là sự thay đổi GDP quí của năm sau so với năm trước thì tính mùa vụ hầu như đã bị loại trừ. Năm nào chẳng có Tết âm lịch rơi vào quí 1, nhưng vì sao năm nào cũng giải thích quí 1 tăng trưởng thấp là do có Tết âm lịch?

Thứ ba, tính toán từ số liệu điều tra doanh nghiệp cho thấy tỷ lệ giá trị gia tăng so với giá trị sản xuất ngày càng sụt giảm. Trong 12 năm từ năm 2005-2016 tỷ lệ này giảm gần 15 điểm phần trăm, tức là mỗi năm giảm bình quân hơn một điểm phần trăm. Như vậy, dù do bất kỳ lý do gì thì phần giá trị gia tăng mà Việt Nam được hưởng cũng nhỏ hơn. Năm 2005 nếu làm ra 100 đồng thì phần giá trị gia tăng khoảng 35 đồng nhưng đến năm 2016, nếu làm ra 100 đồng thì phần giá trị gia tăng chỉ có 20 đồng [điều này cho thấy nền kinh tế Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào các doanh nghiệp FDI, phần Việt Nam nhận được chỉ là công gia công lắp ráp]. Do đó, khi giá trị sản xuất của công nghiệp chế biến tăng 12,8% [như TCTK thông báo] thì phần giá trị gia tăng không thể tăng cùng với tốc độ tăng của giá trị sản xuất!

Lo ngại

Trong nhóm ngành dịch vụ, những ngành sử dụng tiền ngân sách như quản lý nhà nước, y tế, giáo dục có tốc độ tăng trưởng cao hơn mức tăng chung của nền kinh tế trong cả chín tháng đầu năm 2016 [trên 7% so với 6%] và chín tháng đầu năm 2017 [7,2% so với 6,41%] và xu hướng này cũng là “năm sau cao hơn năm trước”. Như vậy, việc tinh giản biên chế vẫn chỉ là khẩu hiệu và chi ngân sách vẫn tiếp tục phải chịu áp lực nuôi bộ máy khổng lồ. Điều này còn cho thấy tăng chi thường xuyên sẽ làm tăng GDP từ phía cung và phía cầu nhưng nền kinh tế sẽ bất ổn hơn.

Hơn nữa, số liệu GDP chín tháng theo ngành cho thấy giảm phát của giá trị gia tăng [VA deflator] của ngành giáo dục cao hơn giảm phát GDP [GDP deflator] gấp rưỡi và của ngành y tế cao hơn hơn gấp đôi. Thu nhập của người lao động chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị gia tăng hai ngành này. Như vậy mức độ tăng về thu nhập hoặc lợi nhuận của hai ngành này rất cao so với mặt bằng chung. Đối với ngành nào cũng thế, vấn đề là việc phân bổ thu nhập không đều giữa các bộ phận/con người! Phân bổ nguồn lực về vốn và con người đã bị chảy ngược không chỉ trên giác độ vĩ mô mà trong từng ngành!

Và câu hỏi về phương pháp tính GDP

GDP tính từ phía cầu bao gồm tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình [C], chi tiêu dùng cuối cùng của Chính phủ [G], đầu tư/tích lũy gộp tài sản [I] và chênh lệch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ [E - M].
GDP từ phía cung bằng tổng giá trị gia tăng theo giá cơ bản + thuế sản phẩm. GDP mà Bộ KH&ĐT công bố là GDP tính từ phía cung.

Từ số liệu của Bộ KH&ĐT cho thấy GDP từ phía cung và phía cầu của ba tháng, sáu tháng và chín tháng là hoàn toàn khác nhau. Tất nhiên, tất cả sự chênh lệch giữa hai phương pháp tính GDP được đưa vào phần gọi là sai số. Nhưng điều quan trọng cần nói là tăng trưởng GDP quí, sáu tháng, chín tháng là hoàn toàn khác nhau.

Bảng dưới đây cho thấy GDP từ phía cầu của quí 1 chỉ tăng trưởng 3,88%, quí 2 tăng 3,21%, quí 3 tăng 4,67% và chín tháng chỉ tăng trưởng 3,93%. Theo ý niệm gốc mà Keynes đưa ra, GDP chính là tổng cầu cuối cùng. Vậy con số tăng trưởng nào là đúng và hợp lý?

Cũng như một con bệnh, giấu đi những bệnh tật của mình càng lâu càng khó chữa. Theo tôi, việc đầu tiên cần làm là minh bạch những con số vĩ mô để phản ánh thực sự nền kinh tế đang ở đâu, trong tình trạng nào, như vậy mới có thể sửa chữa. Việc này cần làm càng sớm càng tốt.

Tác giả: Bùi Trinh[ theo báo thesaigontimes]

Nguồn tin: //www.thesaigontimes.vn/166393/Noi-them-ve-cach-tinh-GDP.html

[Trở về]

Các tin mới:

12345678910...

Kinh tế xã hội 4 tháng đầu năm nhiều khởi sắc [Ngày đăng: 8:52 | 06/05 ]
Phục hồi đà tăng trưởng sau đại dịch [Ngày đăng: 15:00 | 05/05 ]
Nhiều ý kiến góp ý dự thảo nghị quyết hỗ trợ đầu tư, tu bổ di tích [Ngày đăng: 16:39 | 06/04 ]
Quế Sơn kiến nghị nhiều vấn đề bức xúc [Ngày đăng: 11:15 | 06/04 ]
Đề án vị trí việc làm phải hướng đến giải quyết nhiều vấn đề [Ngày đăng: 16:41 | 01/04 ]
Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh chủ trì hội nghị giao ban nội chính quý I/2022 [Ngày đăng: 16:24 | 30/03 ]
Quảng Nam kiến nghị nhiều vấn đề quan trọng với Thủ tướng Chính phủ [Ngày đăng: 7:13 | 28/03 ]

Các tin khác:

12345678910...

Cần thể chế đặc biệt và đột phá [Ngày đăng: 9:40 | 10/11 ]
Quy chế quản lý, sử dụng chỉ dẫn địa lý Ngọc Linh [Ngày đăng: 9:06 | 10/11 ]
Tin khẩn cấp: Bão số 12 tiếp tục tăng cường độ [Ngày đăng: 10:37 | 03/11 ]
Chấm dứt tình trạng “trên nóng, dưới lạnh” [Ngày đăng: 10:28 | 03/11 ]
1.554 lao động được hỗ trợ đào tạo nghề theo Nghị quyết 12 [Ngày đăng: 10:23 | 03/11 ]
Thu nội địa 10 tháng đạt 82,2% dự toán [Ngày đăng: 10:01 | 02/11 ]
Thu nội địa đạt hơn 82% [Ngày đăng: 10:18 | 03/11 ]

Video liên quan

Chủ Đề