Biện pháp nào nâng cao hiệu quả sx phân n năm 2024
Những năm qua, nhờ đường lối đổi mới của Đảng, sản xuất nông nghiệp nước ta đã thu được những thành tựu quan trọng, góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tạo tiền đề vật chất để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, cũng như thực hiện thành công mục tiêu phát triển nền kinh tế bền vững. Trong quá trình chuyển từ một nền sản xuất tiểu nông lên sản xuất lớn, có năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh ngày càng cao đòi hỏi sản xuất nông nghiệp phải được chuyên môn hoá, có sự phân công hợp tác lại với nhau cả về chiều rộng và chiều sâu. Tuy nhiên, do sự phát triển không đồng đều mà trong từng địa bàn, từng vùng có những bước đi, cách làm với mức độ khác nhau, nhưng nhìn chung để tạo lập và phát triển mối quan hệ liên kết kinh tế đều phải trải qua hai tất yếu cơ bản là: từ sản xuất tự nhiên, phân tán, tự cấp tự túc chuyển sang sản xuất hàng hoá; và, từ sản xuất phát triển theo chiều rộng (lượng) sang phát triển theo chiều sâu (chất). Những tất yếu đó phần nào đã làm rõ hơn tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó, nó không chỉ giúp cho việc nhìn nhận, đánh giá kết quả thực hiện mô hình liên kết kinh tế, mà còn qua đó, có thể đề xuất được những định hướng, giải pháp có tính khả thi hơn về hoàn thiện mô hình liên kết kinh tế để thực hiện xoá đói giảm nghèo bền vững. Một cánh đồng chuyên canh ớt hàng hoá ở An Ấp, Quỳnh Phụ, Thái Bình (Ảnh: Đ.H)Hiệu quả sản xuất nông nghiệp được nâng cao Nhìn chung, sản xuất nông nghiệp nước ta đang từng bước chuyển sang sản xuất hàng hoá theo hướng tập trung, chuyên canh, quy mô sản xuất nguyên liệu ngày càng lớn. Nhờ có các biện pháp phát triển sản xuất, trên các vùng, miền đã hình thành một số vùng sản xuất tập trung như: sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long; vùng trồng cây công nghiệp ở Tây Nguyên, Đông Nam bộ (cà phê, cao su, bông); vùng chè ở trung du, miền núi phía Bắc; vùng trồng cây ăn quả ở đồng bằng sông Cửu Long… Các vùng này đã tạo ra khối lượng hàng nông sản lớn, đáp ứng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, cho tiêu dùng, cho xuất khẩu với số lượng, giá trị ngày càng cao, một số nông sản hàng hoá đã có vị trí cao trên thị trường (như cà phê, cao su, điều, hạt tiêu…) từng bước phát huy được lợi thế của từng vùng, địa phương, thiết thực góp phần phát triển kinh tế của đất nước và xoá đói giảm nghèo. Đến nay, hầu hết các vùng nông sản có khối lượng lớn đã hình thành và phát triển được các cơ sở chế biến với trang thiết bị, công nghệ từng bước được hiện đại; huy động được nhiều loại hình doanh nghiệp của các thành phần kinh tế tham gia, như: doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hợp tác xã…, bước đầu đã gắn kết nhà máy với nông hộ, góp phần giảm thất thoát sau thu hoạch, nâng cao giá trị của nông sản. Nhìn chung, số lượng cơ sở chế biến nông lâm thuỷ sản tăng nhanh trong 10 năm qua. Nếu như năm 2001 có khoảng 252.000 cơ sở; năm 2006 có 428.000 cơ sở, tăng 69,9% so với năm 2001; thì đến năm 2011 con số này đã lên tới 501.000 cơ sở, tăng 17% so với năm 2006 và tăng gấp 2 lần so với năm 2001. Mặt khác, đến năm 2011, cả nước có gần 8.100 xã có cơ sở chuyên chế biến nông sản, chiếm 89,2% tổng số xã. Con số minh hoạ trên cho thấy sự tăng nhanh của các xã có cơ sở chuyên chế biến cũng như số lượng cơ sở chế biến trong những năm qua đã góp phần phục vụ tốt hơn yêu cầu sơ chế và chế biến nông, lâm và thuỷ sản; từng bước gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ các sản phẩm này, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập của hộ gia đình nông dân, ngư dân, phát triển khu vực dịch vụ, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động, phát triển làng nghề ở nông thôn. Số lượng và chủng loại hàng hoá trên thị trường nông thôn, nhất là chợ nông thôn do đó cũng phong phú và đa dạng hơn. Bên cạnh đó, mô hình liên kết giữa cơ sở chế biến và vùng nguyên liệu, liên kết thông qua hợp đồng ở một số vùng, một số cây trồng chủ lực ngày càng trở thành phổ biến. Trong đó, doanh nghiệp chế biến nông sản của Nhà nước đóng vai trò nòng cốt, trung tâm. Hình thức liên kết thông qua hợp đồng ngày càng phát triển và trở thành phổ biến đối với một số cây trồng, từng bước đáp ứng được các yếu tố đầu vào của sản xuất (vốn, giống, vật tư, đất đai, lao động…) và đầu ra của sản phẩm (mua bán nguyên liệu, dự trữ, bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm sau chế biến,…); từ đó tạo ra mối quan hệ ngày càng gắn bó giữa nhà máy chế biến và nông hộ, đảm bảo tính ổn định, phát triển bền vững của cả nông hộ và nhà máy chế biến; đồng thời, khắc phục được một bước những rủi ro thời tiết và thị trường. Số lượng, chất lượng và giá trị hàng hoá nông sản cũng ngày càng được nâng cao. Sự liên kết giữa nhà máy chế biến và vùng nguyên liệu đã tạo điều kiện khuyến khích sản xuất hàng nông sản phát triển, nhất là các loại hàng hoá nông sản xuất khẩu chủ lực có tốc độ phát triển nhanh, phù hợp với nhu cầu của thị trường, góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản. Năm 2012, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm ước đạt hơn 27,5 tỷ USD, tăng 9,7% so với năm trước và chiếm tới 23,99% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Liên kết giữa cơ sở chế biến và nông hộ cũng góp phần thúc đẩy quá trình phân công chuyên môn hoá sản xuất, chuyển dịch cơ cấu lao động, chuyển một phần lao động nông nghiệp sang lao động trong ngành công nghiệp chế biến, dịch vụ nông nghiệp; góp phần xoá đói giảm nghèo, tăng thêm việc làm, cải thiện đời sống của nông dân, nhất là đồng bào dân tộc trong vùng nguyên liệu; đồng thời nâng cao trình độ tiếp thu khoa học - kỹ thuật, khắc phục tình trạng sản xuất manh mún và làm thay đổi tập quán canh tác lạc hậu ở khu vực nông thôn. Do đó, tính đến năm 2011, vốn tích lũy bình quân một hộ nông thôn đạt 17,4 triệu đồng, gấp 2,6 lần so với cùng thời điểm năm 2006. Đây là yếu tố quan trọng để Việt Nam tiếp tục đạt được những thành tích mới trong xoá đói giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo cả nước năm 2012 ước tính là 11,3 - 11,5%, giảm 1,1 - 1,3% so với năm 2011. Những trở lực cần sớm giải quyết Tuy đã đạt được những kết quả tích cực như trên, nhưng cũng còn một số tồn tại cần sớm khắc phục, đó là: Quy mô sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún, giá thành nông sản còn cao. Đa số sản phẩm nông nghiệp được sản xuất theo mô hình kinh tế hộ gia đình, nên có quy mô nhỏ, manh mún đã dẫn tới hạn chế nhiều đến việc ứng dụng khoa học, kỹ thuật, đầu tư cơ giới hoá theo hướng sản xuất lớn; năng suất còn thấp, chất lượng sản phẩm không đồng đều, tổn thất sau thu hoạch và giá thành sản xuất còn cao, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm nông sản so với khu vực và thế giới thấp. Công nghiệp chế biến lạc hậu, tính cạnh tranh của nông sản thấp. Tỷ trọng một số sản phẩm công nghiệp chế biến còn thấp so với nguyên liệu hiện có, sản phẩm mía đường được đưa vào chế biến chiếm 30%, chè 55%, rau quả 5%...; nhiều nhà máy còn sử dụng thiết bị dây chuyền cũ, lạc hậu (hệ số đổi mới thiết bị chỉ ở mức 7%/năm, bằng 1/2-1/3 so với các nước trong khu vực); mẫu mã, thương hiệu và chất lượng sản phẩm sau chế biến chậm được cải thiện nên chưa tạo ra nhiều nông sản có giá trị gia tăng cao, hiệu quả và tính cạnh tranh còn thấp. Quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp chưa gắn với tổ chức lại sản xuất. Phát triển vùng nguyên liệu còn mang tính tự phát, thiếu đồng bộ từ khâu quy hoạch đến bố trí hợp lý các cơ sở chế biến; giữa vận chuyển và bảo quản sau thu hoạch, dẫn đến tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch sản phẩm cùng loại của nước ta cao hơn các nước trong khu vực. Tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch đối với cây lương thực từ 10 - 15% (trong khi đó, Thái Lan 7 - 10%, Nhật Bản 3,9 - 5,6%,…); rau quả, trái cây 25 - 30% (trong khi Thái Lan và Inđônêxia là 15%);… Một số nông sản có lợi thế chưa được đầu tư cơ sở chế biến (rau quả, trái cây), xuất khẩu chủ yếu từ sản phẩm thô và xuất khẩu nguyên liệu, nên giá trị xuất khẩu một số mặt hàng nông sản so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường thế giới thường thấp hơn (khoảng 10 - 15%). Thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp Để thực hiện chuyển mạnh sản xuất nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá, gắn quá trình chuyên môn hoá với sự phân công hợp tác, cần thực hiện tốt một số vấn đề như: Chuyển mạnh sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất nông nghiệp hàng hoá, gắn sản xuất với chế biến và tiêu thụ hàng hoá nông sản, nhất là các vùng sản xuất các sản phẩm chủ lực có tính cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Cụ thể: vùng miền núi phía Bắc sản xuất chè, cà phê, rau quả; vùng đồng bằng Bắc bộ sản xuất gạo, rau quả, thịt, sữa; vùng duyên hải miền Trung sản xuất mía đường, thuỷ sản, điều; vùng Tây Nguyên sản xuất cà phê, cao su, điều; vùng miền Đông Nam bộ sản xuất cao su, rau quả, điều, sản phẩm có dầu; vùng đồng bằng sông Cửu Long sản xuất lúa gạo, rau quả, mía đường, thuỷ sản… Cần xây dựng mối quan hệ liên kết theo mô hình nhất thể hoá nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ (tổ hợp nông - công nghiệp - dịch vụ) trong từng vùng chuyên canh, tập trung sản xuất hàng hoá theo quy hoạch; trong đó lấy doanh nghiệp chế biến làm nòng cốt, đầu tầu hướng dẫn, giúp đỡ các nông hộ, tổ chức kinh tế tập thể và các thành phần kinh tế khác sản xuất nông sản đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Đẩy mạnh liên kết giữa nhà máy chế biến và nông hộ thông qua chương trình “liên kết 2 nhà, 3 nhà, 4 nhà, 5 nhà…”, chương trình cổ phần hoá nhà máy chế biến gắn với vùng nguyên liệu, các chương trình hỗ trợ của Nhà nước về khuyến nông, khuyến lâm, xây dựng kết cấu hạ tầng nhằm nâng cao chất lượng nguyên liệu, sản phẩm chế biến, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường sinh thái. Sớm tập trung xây dựng và kiện toàn một số mô hình nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ (tổ hợp nông - công nghiệp - dịch vụ) trong từng vùng sản xuất nông sản tập trung, có khối lượng hàng hoá lớn theo quy hoạch; trong đó lấy doanh nghiệp chế biến làm nòng cốt, đầu tầu hướng dẫn, giúp đỡ các nông hộ, tổ chức kinh tế tập thể và các thành phần kinh tế khác sản xuất hàng hoá nông sản đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Phát triển loại hình doanh nghiệp cổ phần có các cổ đông nông hộ của nhà máy chế biến, bằng hình thức thành lập mới hoặc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Đa dạng hoá các hình thức liên kết, trong đó có hai hoặc nhiều chủ thể tham gia, như: doanh nghiệp chế biến nông sản nhà nước + chủ thầu, tư thương + nông hộ; doanh nghiệp chế biến nông sản nhà nước + hợp tác xã; hoặc các doanh nghiệp nhà nước về chế biến, cung ứng vốn, vật tư, tiêu thụ sản phẩm + hợp tác xã + hộ xã viên hợp tác xã, nông dân + các đơn vị nghiên cứu, chuyển giao khoa học và công nghệ… trong đó, liên kết giữa doanh nghiệp chế biến nông sản của Nhà nước với hợp tác xã - người đại diện về lợi ích và trách nhiệm của hộ xã viên cần được khuyến khích phát triển. Các mô hình liên kết trên cần triển khai các bước đi, cách làm cho phù hợp, từ thấp đến cao, trên cơ sở gắn được sản xuất với chế biến, tiêu thụ sản phẩm trong từng địa bàn, vùng nguyên liệu. Thông qua đó, các yếu tố đầu vào của sản xuất (vốn, giống, vật tư, đất đai, lao động…) và đầu ra của sản phẩm (mua bán nguyên liệu, dự trữ, bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm sau chế biến…) gắn với nhau một cách đồng bộ, thống nhất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Trình độ phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất đòi hỏi mô hình liên kết ngày càng phải hoàn thiện; chính vì vậy, quá trình hoàn thiện mô hình liên kết là quá trình chuyển từ các phương thức liên kết đơn giản, lỏng lẻo lên các phương thức liên kết phức tạp hơn, chặt chẽ hơn và ổn định hơn; từ việc trao đổi, mua bán thông thường trên thị trường, chuyển sang liên kết với nhau bằng các hợp đồng kinh tế và cao hơn là góp vốn cổ phần để cùng nhau chia sẻ một cách bình đẳng về lợi ích, rủi ro trong sản xuất - kinh doanh. Cần có chính sách khuyến khích việc gắn kết giữa sản xuất nguyên liệu và nhà máy chế biến, chuyển đổi các cơ sở chỉ có chế biến hiện nay phải gắn với vùng sản xuất nguyên liệu. Xây dựng các chế tài đủ hiệu lực, hiệu quả trong thực hiện hợp đồng liên kết giữa nhà máy và nông hộ. Có chính sách khuyến khích phát triển các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức, cá nhân tham gia liên kết giữa nhà máy và vùng nguyên liệu; trong đó cơ sở, nhà máy chế biến làm nòng cốt trong việc bảo đảm lợi ích của các bên tham gia liên kết. Đảm bảo nguyên tắc tự nguyện và quan trọng hơn là sự bình đẳng giữa các chủ thể về lợi ích, trong đó cần ưu tiên lợi ích đối với nông dân, tổ hợp tác, hợp tác xã, những người sản xuất nguyên liệu cung ứng cho công nghiệp chế biến nhằm tạo động lực tăng nhanh năng suất cây trồng, vật nuôi, giảm chi phí đầu vào của sản xuất nguyên liệu, hạ giá thành sản phẩm của công nghiệp chế biến. Tăng cường sự hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà nước để gắn kết mối quan hệ nhà máy chế biến với vùng nguyên liệu thông qua việc: tạo thuận lợi về hành lang pháp lý, cung ứng tín dụng, xây dựng các quỹ bảo hiểm rủi ro, quỹ hỗ trợ xuất khẩu; xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng hệ thống thông tin, dự báo thị trường; phát triển sự nghiệp khoa học kỹ thuật, văn hoá, giáo dục, y tế…/. |